Rainer Maria Rilke | Orpheus. Eurydice. Hermes

Nguyễn Huy Hoàng dịch

Đó là khu mỏ kỳ quái của những linh hồn.
Như quặng bạc yên lặng họ đi
như mạch máu xuyên qua bóng tối của nơi đó. Giữa rễ cây
máu trào lên, chảy đến với loài người,
và trông nặng như đá poóc-phia trong bóng tối.
Ngoài ra chẳng còn gì đỏ. Tiếp tục đọc

Phan Nhiên Hạo | Đêm

Quán rượu gần sáng ngọn đèn màu đỏ,
những ly thủy tinh đầy máu.
Chủ quán thì thầm với người bồi rượu
âm mưu giết chuột trong khi con chuột chạy quanh chân ghế
như xe đồ chơi điều khiển từ xa bởi một đứa trẻ lên ba. Tiếp tục đọc

Cao Huy | Bà lão

Trên tạp chí Văn Học số 41 phát hành tháng 6-1989, Nguyễn Mộng Giác giới thiệu 6 người viết trẻ tại Úc châu: Cheo Reo, Cao Huy, Uyên Nguyên, Hoàng Ngọc-Tuấn, Thường Quán, Hoàng Từ Dương. Ba thập niên sau tôi vẫn còn nhớ truyện ngắn phóng tác “Bà Lão” của Cao Huy. Vì không khí truyện lạ lùng mà cũng vì “Bà Lão” được viết theo thể Phi Lý (L’Absurde) rất hiếm trong tiếng Việt, nhất là vào thập niên 80. Tiếp tục đọc

Nguyễn Thái Bình | Bài thơ mùa dịch

Nhà thơ ho và sốt
bị nghi ngờ mắc dịch
nên đưa vào viện để xét nghiệm và cách ly.
Sau khi lấy mẫu bệnh phẩm
thừa cơ các y bác sỹ đang bận live stream
ca hát và cắt tóc ăn thề Tiếp tục đọc

Quảng Tánh Trần Cầm | Khúc ngắn đêm dài. Hiểm nghèo

1.
mẹ dạy làm người
( ̶ ̶ giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha)
con vẫn chưa thông
( ̶ ̶ giữa đường thấy chuyện bất bình
cúi đầu ngoảnh mặt đi qua.) Tiếp tục đọc

Trần Băng Khuê | Về một tuổi trẻ màu xanh

1.

Bắt đầu là một chiếc áo. Phải rồi, tuổi trẻ của tôi là một tình yêu mơ mộng ư? Không, chúng là chiếc áo có màu xanh mà tôi chỉ kịp nhìn thấy sau lưng chuyến tàu rời ga trong cơn mưa phùn lất phất ở ga Sài Gòn năm nào đó. Tiếp tục đọc

Paul Celan | Bảy bài thơ

Nguyễn Huy Hoàng dịch

Paul Celan sinh năm 1920 trong một gia đình Do Thái ở Czernowitz, khi đó thuộc Rumani. Năm 1942 quê hương ông bị Đức chiếm đóng và bố mẹ ông bị đưa đến trại tập trung, nơi họ qua đời sau đó. Thoát khỏi trại lao động, Celan đến Bucharest năm 1945 và sau một thời gian ngắn ở Vienna, ông đến Paris năm 1948, nơi ông ở lại, kiếm sống bằng nghề dịch và giảng dạy tại L’École Normal Superieure, cho đến khi tự sát năm 1970.
Tiếp tục đọc

Trần Nghi Hoàng | Chỗ Hội An

Cơn mưa dầm đã bỏ đi từ lúc nào chẳng biết
Hội An chiều trở mình đêm An Hội
Con trăng cô lâu chết dật dờ trên sông Hoài
Xác trôi trôi giữa những chiếc thuyền giấy và những đốm lửa phập phồng
Tiếp tục đọc