Cao Huy | Bà lão

Trên tạp chí Văn Học số 41 phát hành tháng 6-1989, Nguyễn Mộng Giác giới thiệu 6 người viết trẻ tại Úc châu: Cheo Reo, Cao Huy, Uyên Nguyên, Hoàng Ngọc-Tuấn, Thường Quán, Hoàng Từ Dương. Ba thập niên sau tôi vẫn còn nhớ truyện ngắn phóng tác “Bà Lão” của Cao Huy. Vì không khí truyện lạ lùng mà cũng vì “Bà Lão” được viết theo thể Phi Lý (L’Absurde) rất hiếm trong tiếng Việt, nhất là vào thập niên 80. Các thủ pháp thường thấy của trường phái này – như hoạt cảnh lập đi lập lại với tình huống khó xử vừa quái đản, vừa lố bịch đầy kỳ lạ pha trộn với khôi hài đen và đối thoại vô nghĩa, trong thời gian bất tận không tương lai, không quá khứ và sự cô độc của nhân vật – hội tụ trong “Bà Lão.” Đánh máy lại cho litviet.

Trần Vũ 

Bà lão đứng trước sân, hai tay khư khư ôm cái đồng hồ treo tường. Tôi đi ngang qua bà, dừng lại và hỏi

“Thưa bà, bây giờ là mấy giờ?”

“Thì anh cứ coi nè”. Bà lão trả lời. Tôi nhìn vào mặt đồng hồ trống trơn không có kim.

“Dạ thưa bà, cái đồng hồ này không có kim”. Tôi ngạc nhiên nói.

Bà lão nhìn vào mặt đồng hồ rồi bảo tôi

“Bây giờ là 12 giờ thiếu 15”

“Dạ, cám ơn bà”. Tôi vội vã trả lời và bước đi. Có tiếng bà lão nói lớn đuổi theo, nhưng tôi không buồn ngoái đầu nhìn lại. Tôi đi ra đường dọc theo ánh nắng mặt trời. Trời mùa xuân thật đẹp. Đến góc đường, gặp Châu đứng đó, tôi chào hắn, dừng lại nói chuyện một hồi lâu. Mỏi chân quá, tôi rủ hắn vào quán bia gần đấy uống vài ly rồi chia tay. Tôi lại đi một mình.

Đột nhiên tôi nhớ lại rằng mình quên tắt cái bếp điện ở nhà. Thật là phiền hết sức, với một ngày đẹp đẽ như vậy, lại xảy ra cái chuyện không may, phải gió ấy. Lẽ ra, tôi không nên đi dạo một vòng mới phải.

Tôi về nhà, cởi áo khoác ra, lấy cái đồng hồ nhét trong túi bỏ lên bàn, khóa cửa lại rồi nằm dài trên ghế sa-lông cố dỗ giấc ngủ.

Trẻ con hàng xóm đùa giỡn ồn ào gây nên nhiều tiếng náo nhiệt thật dễ ghét. Tôi nằm đó, nghĩ đến cách trừng trị chúng. Cách hay nhất có lẽ là chích cho chúng một thứ thuốc tê liệt làm chúng không cử động được đến nỗi cha mẹ chúng phải dìu chúng vào nhà. Chúng sẽ phải nằm tê liệt trên giường và không ăn uống gì cả vì chúng không há miệng ra được. Cha mẹ chúng phải đút cho chúng ăn. Sau một tuần, chúng sẽ hết tê liệt nhưng vẫn phải ở trên giường hơn một tháng nữa vì chúng còn yếu lắm. Sau đó chúng khỏi hẳn, nhưng tôi sẽ chích thêm cho chúng một mũi thứ hai, lần này chúng phải chết hết.

Tôi nằm dài trên ghế, mắt mở lớn nhìn lên trần và không thể ngủ được. Tôi cố nhớ đến bà lão với cái đồng hồ ở trước sân. Tôi vui vẻ huýt sáo khe khẻ khi nhớ lại cái đồng hồ không có kim của bà lão. Gần đây, trong tiệm bán đồ cũ, tôi thấy cái đồng hồ bếp hư có kim giống như là dao với nĩa.

Thôi chết rồi, tôi vẫn chưa tắt cái bếp điện. Tôi hộc tốc chạy xuống tắt bếp, xong rồi trở lại nằm trên ghế và cố dỗ giấc ngủ. Tôi khép mắt lại. Tôi buồn ngủ. Nắng xuân rọi qua cửa sổ chiếu thẳng vào mặt tôi. Bắt đầu thấy nóng, tôi đứng dậy đi đến ghế bành bên cửa sổ và ngồi xuống.

Tôi buồn ngủ nhưng nhất định không ngủ. Tôi vào phòng lấy giấy viết ra để viết một cái gì đó. Tôi thấy như có lửa âm ỉ trong tôi. Tôi đã nghĩ đến bố cục, dàn dựng truyện suốt cả ngày hôm qua. Tôi sẽ viết truyện về một nhà pháp thuật cao cường sống trong thời đại chúng ta và không bao giờ tạo nên một phép lạ nào cả. Ông biết, ông có thể tạo nên bất cứ phép lạ nào ông muốn, nhưng ông không bao giờ làm. Khi người ta đến đuổi ông ra khỏi nhà, ông biết ông chỉ cần vẩy một ngón tay là giữ được ngôi nhà của ông, nhưng ông không làm. Ông chỉ lẳng lặng dọn ra khỏi nhà đến ở bên đống rác. Ông có khả năng biến đống rác thành tòa dinh thự nguy nga đồ sộ, nhưng ông không làm. Ông vẫn tiếp tục cuộc sống cơ hàn bên đống rác và chết trong rét mướt mà không hề tạo nên một phép lạ nhỏ nhoi nào trong trọn đời ông.

Tôi hớn hở ngồi xoa tay khoan khoái. Nhất định kỳ này Châu sẽ tức uất lên vì ganh cho xem. Hắn nghĩ là tôi sẽ không bao giờ viết được một cái gì đầy chất sáng tạo của một thiên tài… Hừ, để coi. Cần phải viết nhanh, thật nhanh. Tôi sẽ viết hai mươi bốn tiếng đồng hồ liên tục.

Tôi run lên với nỗi bồn chồn nóng nảy. Tôi không thể phác họa được mình sẽ làm những gì. Tôi phải lấy giấy và viết, nhưng tôi chụp loạn cả lên, toàn là những thứ không cần thiết. Tôi chạy loanh quanh khắp phòng từ cửa sổ đến bàn viết, từ bàn viết xuống bếp, từ bếp lên bàn, lên sa-lông và trở lại cửa sổ. Tôi ngạt thở với ngọn lửa sáng tạo đang thiêu đốt ngực tôi. Bây giờ mới có 5 giờ, tôi còn cả ngày, cả đêm…

Tôi đứng chơ vơ giữa phòng. Tôi đang nghĩ gì nhỉ? Đã sáu giờ kém hai mươi rồi. Tôi phải viết chứ. Tôi hấp tấp kéo bàn viết đến bên cửa sổ với giấy trước mặt và viết trong tay. Tim tôi vẫn còn đập quá mạnh, tay tôi vẫn còn run. Tôi phải chờ tôi lắng xuống một chút. Tôi đặt viết xuống và đốt một điếu thuốc. Mặt trời chiếu thẳng vào mắt tôi, tôi nhíu mày, rít một hơi thuốc và ho sặc sụa.

Có con chim bồ câu bay ngang qua cửa sổ. Tôi nhìn ra cửa sổ, mắt lần xuống dưới đường, thấy một gã đàn ông đang khập khểnh chống nạng đi. Cặp nạng hắn khua lên lộp cộp thật ồn ào. “Hùm!”. Tôi đằng hắng và tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ. Mặt trời đang núp phía sau nóc nhà thật cao phía bên kia đường và hắt lên mặt tôi. Tôi phải lợi dụng bóng mát để viết thật nhanh về nhà pháp thuật mới được. Tôi hối hả cầm bút lên viết “Nhà pháp thuật dáng người cao ráo”.

Tôi không thể viết gì hơn được. Tôi ngồi bất động đến khi bụng đói cồn cào. Tôi xuống bếp lục lọi đồ ăn, không còn gì ở đấy ngoại trừ một hũ đường. Có người đang gõ cửa thật mạnh. Tôi hỏi lớn “Ai đó?” không có tiếng trả lời. Tôi chạy ra mở cửa, thấy bà lão với cái đồng hồ treo tường hồi sáng đang đứng sờ sờ trước mặt. Tôi ngạc nhiên đứng sững người không biết nói gì.

“Tôi đã đến”. Bà lão bảo tôi rồi từ từ bước vào nhà.

Tôi đứng lặng người bên cửa không biết phải làm gì, đuổi bà ra khỏi nhà, hay ngược lại, mời bà ngồi chơi. Nhưng bà lão đã tự tiện đi đến ghế bành bên cửa sổ và ngồi xuống.

“Đóng cửa và khóa lại”. Bà lão bảo tôi.

Tôi đóng và khóa cửa lại.

“Quỳ xuống!” Bà lão ra lệnh.

Tôi quỳ xuống và chợt thấy vô lý hết sức. Tại sao tôi phải quỳ trước mặt bà lão? Tại sao bà lão lại vào nhà tôi va ngang nhiên ngồi lên cái ghế bành yêu quý của tôi? Tại sao tôi không đuổi bà ấy ra?

“Này, bà cụ”. Tôi nổi nóng lên tiếng.

“Bà có quyền gì tự tiện bước vào nhà tôi rồi sai bảo tôi? Tôi không muốn quỳ một chút nào cả”.

“Anh không cần phải quỳ”, bà lão từ tốn đáp. “Bây giờ anh phải nằm sấp úp mặt xuống sàn nhà cho tôi”.

Tôi vâng lời bà lão ngay lập tức. Tôi úp mặt xuống ô vuông lành lạnh thật lâu. Xương vai và xương hông tôi tê điếng. Tôi đang nằm sấp. Không chịu đựng nổi nữa tôi phải cố trở người mới được. Vận dụng hết sức lực, cạnh sườn tê buốt, tôi gượng ngửa cong người dậy, hai đầu gối vẫn bám chặt lấy sàn nhà. Đảo mắt nhìn quanh, tôi thấy mình đang quỳ chơ vơ giữa phòng. Tôi dần dần hồi tỉnh và nhớ lại: Hình như có bà lão trong nhà tôi thì phải? Căn phòng mờ mờ tối, không biết màn đêm đang kéo xuống hay trời đang rạng sáng. Tôi ngoái đầu nhướng mắt nhìn sang phía cửa sổ. Thôi đúng rồi, bà lão đang ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành yêu quý của tôi, đầu gục xuống ngực. Chắc bà đang ngủ gục. Cơn giận xông lên ứ tràn làm tôi ngạt thở. Vẫn quỳ giữa phòng, tôi lấy hơi quát lớn.

“Này bà cụ, bà đã tự tiện bước vào nhà tôi, lại còn ngang nhiên ra lệnh sai bảo tôi nữa chứ. Tôi còn nhiều việc phải làm, không hơi đâu gây phiền nhiễu với bà. Yêu cầu bà ra khỏi nhà tôi ngay”. Không có tiếng trả lời.

Tôi đánh bạo đứng dậy đi đến trước bà. Bà lão vẫn ngồi bất động, đầu gục xuống ngực, hai tay gác xoải lên thành ghế. Tôi cúi xuống nhìn thẳng vào mặt bà, miệng bà há hốc, hàm răng giả treo lủng lẳng. Thôi chết rồi, bà lão đã chết.

Người tôi run lên vì sợ, vì giận. Tại sao bà ta lại vào và chết ngay trong nhà tôi? Tôi không chịu đựng được người chết. Lại còn biết bao nhiêu điều phiền toái với cái thây ma này nữa chứ. Vậy là tôi phải đi báo với cảnh sát và giải thích cho họ tại sao bà lão lại vào nhà tôi và chết ở đây. Tôi đặt tay lên trán bà, trán lạnh ngắt, tay chân cũng thế. Hừm, tôi phải làm gì bây giờ?

Tôi đốt một điếu thuốc, đi tới, đi lui và ngồi xuống ghế. Tôi muốn điên lên vì giận. “Đồ…”. Tôi gào lên giọng khản đặc tắt nghẽn. Bà lão ngồi lọt thỏm trên ghế như một cái bị rách nát, dơ bẩn lưỡi thè ra, hàm răng giả treo lủng lẳng. Trông bà giống như một con ngựa già chết đói lâu ngày.

“Đồ chết bầm, đê tiện”. Tôi lầm bầm nguyền rủa. Tôi buồn mửa nhưng vẫn không dám lấy giấy báo phủ lên người bà già ấy vì chuyện gì cũng có thể xảy ra dưới tờ báo.

Có tiếng người di động ở căn phòng kế bên. Gã hàng xóm, một công nhân hãng thép, đang thức dậy. Tôi điếng người lên vì sợ gã tìm thấy bà lão đang ngồi chết trong phòng tôi. Tôi lắng nghe bước chân gã. Tại sao gã lại chậm trễ như vậy? Bây giờ là 5 giờ 30. Đúng ra gã phải rời nhà từ lâu kìa. Tôi nghe qua bức tường tiếng nước sôi reo ầm ỉ. Hình như gã chỉ mới bắt đầu uống cà phê. Ước gì gã công nhân chó chết này rời khỏi nhà thật nhanh nhỉ!

Tôi ngã người xuống ghế. Tám phút đã trôi qua, gã hàng xóm vẫn chưa uống cà phê, ấm nước vẫn còn reo. Tôi khép mắt lại ngủ thiếp đi. Tôi nằm mơ thấy gã hàng xóm rời khỏi nhà và tôi cùng đi ra ngoài với hắn. Bước xuống khỏi cầu thang, tôi đóng cửa lại. Cửa khóa mất, tôi không thể trở lại phòng mình được vì quên đem theo chìa khóa. Không lẽ tôi phải bấm chuông đánh thức những người hàng xóm khác. Thật là phiền và nguy hiểm. Tôi đứng trước cửa, phân vân không biết mình phải làm gì. Tôi nghiêng đầu nhìn xuống xem thử mình có bàn tay hay không. Tôi thấy một bên, thay vì là bàn tay là dao, một bên là nĩa.

“Ê!”. Tôi bảo Châu, không hiểu tại sao và từ lúc nào, gã đang ngồi chễm chệ trên cái ghế xếp trước mặt tôi. “Coi nè, coi hai bàn tay của tôi nè”. Châu ngồi đó yên lặng, tôi chợt nhận ra không phải là Châu, mà là một hình người được nặn ra từ đất sét.

Tôi choàng tỉnh dậy và tin ngay rằng mình đang nằm trên ghế sa-lông, còn bà lão đang ngồi chết trên ghế bành, bên cửa sổ.

Tôi ngoái đầu nhìn về phía cửa sổ. Ồ, không có bà lão ngồi trên ghế. Tôi say đắm ngắm nghía cái ghế bành trống không, lòng tràn ngập vui sướng. Như vậy tất cả chỉ là giấc mơ mà thôi. Nhưng giấc mơ khởi đầu từ đâu nhỉ? Không hiểu hôm qua bà lão có vào nhà tôi không? Chắc đó cũng chỉ là mơ thôi. Tôi trở về nhà hôm qua vì quên tắt cái bếp điện. Nhưng, biết đâu đó không lại là một giấc mơ? Thôi mặc kệ, bất kể chuyện gì, miễn sao bà lão không còn trong nhà tôi nữa là tốt rồi. Tôi sẽ không phải trình báo lôi thôi với cảnh sát nữa.

Nhưng, tôi đã ngủ trong bao lâu nhỉ? Tôi nhìn đồng hồ, chín giờ rưỡi, nhất định phải là chín giờ rưỡi sáng. Những giấc mơ trong một giấc mơ thật là khủng khiếp.

Tôi thỏng chân xuống ghế, vươn mình đứng dậy. Đột nhiên tôi thấy bà lão nằm chết trên sàn nhà, sau bàn viết, bên cạnh ghế bành. Bà nằm ngửa mặt lên trần, hàm răng giả rớt ra khỏi miệng, hai tay bẻ quặp lại phía sau đến độ không thấy được bàn tay. Hai ống quần xốc lên một chút để lộ hai ống chân xương xẩu xanh xao.

“Đồ khốn nạn”. Tôi gào lên thật lớn và chạy đến đá mạnh vào cằm bà lão. Tôi muốn đá thêm vài cái nữa, nhưng chợt sợ rằng mình có thể gây nên vài dấu vết trên thi thể bà lão và người ta sẽ buộc tội tôi giết bà ấy.

Tôi lùi xa khỏi tử thi bà lão, ngồi xuống ghế sa-lông, đốt một điếu thuốc. Mười lăm phút trôi qua. Đối với tôi, sự thật đã quá rõ ràng và phủ phàng. Vẫn không có gì thay đổi. Họ sẽ bắt tôi đem đi thẩm vấn và buộc tội cố sát. Lẽ ra, tôi phải mang giày vào trước khi đá bà ta mới phải.

Tôi đến bên xác bà lão lần nữa, khom người xuống xem xét kỹ càng khuôn mặt bà lão, có vết bầm thật lớn ở cằm bà ấy.

Tôi tự trấn tỉnh một chút và bắt đầu đi qua đi lại trong phòng. Tôi rít một hơi thuốc, nghĩ đến tình trạng nguy hiểm của mình. Tôi bắt đầu run lên vì đói. Một lần nữa, tôi chạy xuống bếp lục lọi nhưng vẫn không tìm thấy gì ngoại trừ một hũ đường.

Tôi rút bóp ra đếm lại tiền, năm mươi đồng cũng đủ cho vài bữa ăn và có thể còn dư chút đỉnh cho thuốc lá và rượu.

Tôi vuốt lại thẳng thớm áo quần đã bị nhàu nhó suốt đêm qua, đeo đồng hồ, mặc áo khoác vào, đi ra khỏi nhà. Tôi thận trọng khóa cửa nhà lại, bỏ chìa khóa vào túi áo, đi bộ ra đường. Trước tiên tôi phải ăn một cái gì cho đầu óc được tỉnh táo rồi sẽ tính đến chuyện giải quyết cái thây ma ở nhà sau.

Trên đường đi đến tiệm tạp hóa, tôi chợt nghĩ rằng, tại sao mình không tìm đến Châu và kể cho hắn nghe mọi việc? Biết đâu hắn sẽ có một giải pháp sáng suốt hơn. Nhưng tôi gạt bỏ ngay ý nghĩ ấy, vì có những việc chỉ nên làm một mình thôi, không nên để lại nhân chứng…

Tôi đến tiệm tạp hóa mua một ít xá xíu và thuốc lá rồi sang hiệu bánh mì gần đấy.

Một đoàn người thật đông chờ mua bánh đang xếp thành một hàng dài trước cửa tiệm. Tôi vội vã nhập vào hàng ngay. Hàng người vẫn tiến chầm chậm, rất chậm và đột nhiên dừng lại. Hình như có chuyện gì xảy ra ở quầy thu ngân.

Tôi giả vờ lơ đễnh nhìn ngắm đàng sau một cô gái trẻ đang đứng xếp hàng phía trước tôi. Cô nàng tỏ ra rất hiếu kỳ: nàng nhoài người sang bên phải, bên trái, đôi khi nhón gót lên cố tìm hiểu xem có sự cố gì ở quầy thu ngân.

Đột nhiên nàng quay sang tôi hỏi: “Anh có biết chuyện gì đang xảy ra ở đàng trước không?”.

“Xin lỗi cô, tôi không biết”. Tôi đáp, cố làm ra vẻ thờ ơ lãnh đạm. Cô gái dáo dác nhìn quanh quẩn và cuối cùng quay lại tôi hỏi:

“Sao anh không ra phía trước coi thử có chuyện gì không?”.

“Xin lỗi cô, tôi không thích chuyện ấy”. Tôi trả lời vẫn với vẻ thờ ơ lãnh đạm.

“Anh không thích à, vậy chứ anh đứng đây để làm gì?” Cô gái cáu kỉnh lớn tiếng.

Tôi không trả lời, chỉ cúi đầu nhìn xuống đất. Cô gái nhìn tôi chăm chú.

“Ờ, mà việc xếp hàng mua bánh mì đâu phải là việc của đàn ông. Nàng xuống giọng: “Xin lỗi anh nhé, chắc anh còn độc thân chứ?”

“Vâng, tôi còn độc thân”. Tôi trả lời với một tí dịu dàng, nhưng vẫn cố giữ vẻ thờ ơ lãnh đạm, đầu vẫn cúi xuống như cũ. Cô gái nhìn tôi chăm chú từ đầu đến chân rồi đột nhiên nắm lấy áo tôi giật giật nói: “Anh cần mua gì nào? Để tôi mua cho, anh chỉ việc ra ngoài kia đứng chờ là được”.

Tôi ngượng ngùng lúng túng nói:

“Cám ơn cô thật nhiều, nhưng tôi có thể tự mua được mà”.

“Không, anh không cần phải khách sáo. Anh cần mua gì nào”. Cô gái đáp.

“Vậy, phiền cô mua giùm tôi mười ổ bánh mì nhé”.

“Được rồi, anh cứ đi ra ngoài rồi mình sẽ tính sau”.

Nàng còn hích nhẹ khuỷu tay tôi nữa chứ. Tôi bước ra khỏi hàng đến trước cửa tiệm, mặt trời mùa xuân chiếu thẳng vào mặt tôi. Tôi đốt một điếu thuốc. Cô gái quá tốt, quá đẹp. Thật là hiếm hoi trong thời buổi hôm nay. Tôi đứng ở đó khép mắt lại vì chói nắng, hút thuốc và nghĩ đến nàng. Nàng có mái tóc đen óng mượt thật dài và đẹp. “Anh hút thuốc nữa à”. Tôi vừa ho sặc sụa vừa nghe giọng thật ấm của nàng ngay bên cạnh. Nàng dịu dàng trao giỏ bánh mì cho tôi.

“Cám ơn…, cám ơn… cô… thật nhiều”. Tôi ngại ngùng nhận lấy giỏ bánh mì.

“Tôi thích thuốc lá và luôn cả người hút thuốc đấy”. Nàng đùa và cười ngặt ngoẻo. Tôi cười theo sượng sùng. Nàng lại hỏi: “Anh mua bánh mì cho anh phải không?”

“Không phải chỉ bánh mì thôi, tôi phải tự lo tất cả”

“Vậy anh thường ăn ở đâu?”

“Thường thì tự nấu, đôi khi ăn tiệm”.

“Anh thích uống bia không?”

“Cũng có chứ, nhưng tôi thích rượu trắng hơn. Có điều ở đây không có nên đành chọn thứ rượu mạnh khác vậy”

“Tôi cũng thích rượu nữa”

“Cô cũng thích rượu à? Ước gì tôi được uống với cô vài ly nhỉ?”

“Tôi cũng muốn uống rượu với anh lắm đấy”.

Tôi chợt lúng túng, vừa vân vê cổ áo vừa rụt rè hỏi nàng:

“Xin lỗi cô,… Tôi có thể hỏi cô vài câu được không?”

Nàng đỏ mặt, e thẹn trả lời:

“Được chứ,… Anh cứ hỏi đi”

“Vậy,… Thưa cô, cô có tin vào thượng đế không?”

Nàng ngạc nhiên “Thượng đế hả,… có chứ”

“Và cô nghĩ thế nào, nếu mình mang một ít rượu rồi lên nhà tôi uống. Tôi ở gần đây nè”.

Nàng (sốt sắng) “Được chứ, tại sao không?”

“Vậy mình đi nào!”

Chúng tôi đi đến tiệm rượu gần đấy. Vừa chọn rượu, chúng tôi vừa nói chuyện huyên thuyên, đủ loại đề tài, từ chính trị, xã hội đến văn chương, nghệ thuật… Và đột nhiên tôi nhớ đến bà lão đang nằm chết trong nhà tôi. Tôi rón rén ôm chai rượu lẻn đến quầy thu ngân trả thật vội, quên cả tiền thối, rồi vụt chạy ra khỏi cửa tiệm. Tôi chạy bán sống, bán chết gần hụt hơi mới dừng lại thở hổn hển và chợt nhận ra mình đang đứng trước nhà Châu.

Tôi khệ nệ ôm xá xíu, rượu, bánh mì đến gõ cửa. Châu còn bận đồ ngủ bước ra mở cửa, thấy tôi hắn reo lên mừng rỡ “Biết thế nào cũng là ông mà”.

Tôi chợt đâm ra khách sáo

“Làm gì đấy, tôi đến có phiền gì không?”

“Không, không” Châu đáp “Đâu có làm gì đâu, chỉ ngồi thơ thẩn ngắm nhà ngắm cửa chơi thôi”.

Tôi bảo Châu “Nè, có một ít rượu và đồ nhắm đấy. Làm lai rai chứ?”

“Tốt thôi”. Châu cười nói và kéo tay tôi vào.

“Có xá xíu đây, mình cần làm nóng lại không? Hay dùng nguội cũng được”.

“Làm nóng đi, trong lúc chờ đợi mình làm một ít cháo cho ấm bụng cái đã. Cháo đặc biệt đấy”.

Châu bắt cái chảo sứ lên bếp rồi lấy ly rót rượu vào. Hắn nhấp một hơi mặt khoan khoái, nâng cao ly rượu lên tuyên bố “Rượu là một loại tiên dược. Trong cuốn Tửu Kinh có nói rượu bổ hơn cả gạo và bánh mì nhiều. Gạo hay bánh mì gì thì cũng chỉ là loại xác phàm nhét vào bao tử thôi. Còn rượu là những gì tinh túy nhất, là linh hồn của gạo và bánh đấy”.

“Đúng đấy, vô đi!” Tôi cười bảo và cụng ly với Châu. Chúng tôi vừa uống vừa nhắm xá xíu nguội. “Đã thiệt” Châu bảo.

Đột nhiên có tiếng lục cục rạn nứt trong phòng. “Cái gì vậy?” tôi hớt hải hỏi lớn.

Chúng tôi ngồi yên lặng lắng nghe. Lại có tiếng giống vậy vang lên nữa. Châu nhào ra khỏi ghế đến bên cửa số hộc tốc giật tấm màn xuống.

“Ông làm gì vậy Châu?” Tôi hốt hoảng la lên.

Châu lầm lì không nói, chạy vụt nhanh xuống bếp, tay quấn tấm màn, nhắt cái chảo sứ ra khỏi lò và càu nhàu

“Mẹ nó, tôi bỏ quên cái chảo không lên lò, nóng quá làm nó bị nứt rồi”.

“Vậy hả!” Tôi thốt lên nhẹ nhỏm.

Chúng tôi trở lại bàn, ngồi xuống

“Hừ, vậy là mình phải ăn thịt nguội rồi” Châu nói.

“Tôi đói kinh khủng” Tôi đáp.

“Nè, làm đi” Châu đẩy dĩa xá xíu đến tôi.

“Ngày hôm qua tôi chưa ăn gì cả”. Tôi rên rỉ phân bua.

Châu la lên giọng hài hước

“Vậy hả. Rất hân hạnh được hầu chuyện cùng thiên tài”

“Thôi dẹp đi” Tôi trừng hắn.

“Hôm qua ông sáng tác chứ gì?” Châu hỏi

“Ừ” Tôi đáp “Nhiều trang độc lắm”.

“Đúng là một thiên tài của thời đại chúng ta” Châu nói và nâng ly làm ực một cái.

Chúng tôi uống. Châu ăn cháo. Tôi ăn xá xíu. Tôi ăn gần hết xá xíu, đốt một điếu thuốc và nói.

“Ông biết không, tôi chạy hộc hơi đến đây vì có người đang theo tôi đấy”

“Ai theo ông?” Châu hỏi.

“Một cô gái” Tôi ngẩng mặt trả lời. Nhưng Châu không hỏi gì thêm, hắn chỉ lặng lẽ rót rượu ra ly. Tôi tiếp tục kể “Tôi gặp nàng ở hiệu bánh mì và tha thiết yêu nàng ngay”.

“Cô nàng đẹp không?” Châu hỏi.

“Đương nhiên” Tôi đáp. “Nét Đông phương độc đáo”.

Chúng tôi uống và tôi tiếp “Nàng đồng ý lên nhà tôi uống rượu. Nhưng khi chúng tôi vào tiệm rượu thì tôi lỉnh mất”.

“Không đủ tiền à?” Châu hỏi.

“Không, không phải” Tôi đáp “Nhưng tôi chợt nhớ là tôi không thể để nàng vào nhà tôi được”.

“Tại sao vậy? Có người đàn bà khác trong nhà ông à?” Châu hỏi.

“Ừ, đúng. Nếu ông muốn nghĩ như vậy. Có người đàn bà khác trong nhà tôi đấy”. Tôi cười đáp “Trong lúc này, tôi không thể để bất cứ ai bước vào nhà tôi được”.

“Chừng nào ông làm đám cưới? Ăn mừng đi chứ!” Châu hỏi.

“Không, tôi không cưới bà ấy đâu” Tôi cười khúc khích đáp.

“Ừ, vậy thì cưới cô nàng ở hiệu bánh mì đi!” Châu thúc giục.

“Sao ông cứ muốn tôi cưới vợ không vậy?” Tôi hỏi.

“Hừm, chúc mừng thắng lợi!” Châu hô lên giọng ranh mãnh.

Chúng tôi uống ngà ngà. Rượu bắt đầu ngấm vào đầu. Tôi đứng dậy đi một vòng quanh phòng, cảm thấy hơi choáng váng.

“Ông nghĩ thế nào về người chết?”. Tôi dừng lại hỏi Châu.

“Chán ngắt” Châu đáp. “Tôi vừa chán vừa sợ họ nữa chứ”.

“Tôi cũng vậy, tôi không chịu được người chết” Tôi đáp. “Nếu người chết đến gần tôi, trừ khi hắn là họ hàng thân thuộc, tôi sẽ đá hắn mấy cái cho bỏ ghét”.

“Thực ra, mình không nên đá người chết” Châu nói.

“Hừm, còn tôi thì tôi mang giày vào đá toát đít hắn đi chứ. Ông biết không, tôi không chịu được người chết và con nít”.

“Đúng rồi, tụi con nít dễ ghét thật” Châu đồng ý.

“Vậy chứ ông nghĩ cái nào tệ hơn, người chết hay con nít?” Tôi hỏi.

“Theo tôi thì con nít tệ hơn. Tụi nó ồn ào gây nhiều điều phiền nhiễu lắm. Còn người chết thì dù sao chúng cũng không thể nhảy vào đời sống mình được” Châu đáp.

“Trật, trật lất. Không phải chỉ nhảy vào thôi, chúng còn…” Tôi gào lên căm phẩn và câm họng ngay lập tức.

Châu nhìn tôi soi mói, kinh ngạc và hỏi “Ông muốn thêm rượu nữa không?”

“Không” Tôi đáp hấp tấp và tiếp nhanh “Không, cám ơn. Tôi không uống nữa đâu”.

Tôi đến gần bàn ngồi xuống. Chúng tôi im lặng trong giây lát.

“Tôi muốn hỏi ông một việc” Cuối cùng rồi tôi cũng lên tiếng “Ông có tin vào thượng đế không?”

Châu ngồi trầm ngâm nhíu mày một lát rồi đáp. “Có vài hành động không được hay ho và lịch sự lắm. Chẳng hạn như yêu cầu người khác cho mình mượn $50 sau khi thấy hắn vừa bỏ túi $200. Hắn chỉ có hai cách hoặc là cho mình mượn tiền hoặc là từ chối và cách từ chối hay nhất, đẹp đẽ nhất, có lẽ là nói rằng hắn không có tiền. Nhưng mình đã cho hắn biết là mình thấy hắn bỏ tiền vào túi. Vô hình chung mình đã rào trước cách từ chối hay nhất, đẹp đẽ nhất của hắn. Mình không cho hắn một sự chọn lựa nào hết. Nói chung là mình chơi bẩn. Đó là một hành động bất lịch sự và không đẹp. Và hỏi một người khác “Ông có tin vào thượng đế không?” cũng là một hành động bất lịch sự và không đẹp”.

“Tại sao?” Tôi hỏi. “Hai vấn đề hoàn toàn khác nhau mà”.

“Tôi không có so sánh đấy nhé” Châu nhấn mạnh.

“Được rồi” Tôi đáp “Như vậy thì… xin lỗi ông, cho phép tôi được hỏi ông cái câu hỏi không được đẹp và lịch sự ấy”.

“Đơn giản thôi, tôi không trả lời” Châu đáp.

“Nếu là tôi, tôi cũng không trả lời, nhưng với lý do khác” Tôi nói.

“Lý do gì vậy?” Châu tò mò hỏi.

“Ông thấy không” Tôi trầm ngâm “Tôi không nghĩ là có người có đức tin và có người không có. Nói tóm lại, chỉ có người muốn tin hay không mà thôi”.

“Điều đó có nghĩa là những người không muốn tin đã tin vào một cái gì đó rồi” Châu đáp “và những người muốn tin trước đó thực sự không tin vào một cái gì cả”.

“Không chừng kể cả cái chết” Tôi tiếp.

“Vậy tại sao ông hỏi tôi: ông có tin vào thượng đế không?”

“Đơn giản chỉ để hỏi ông: ông có tin vào cái chết không? Cũng một câu hỏi ngớ ngẩn, ngu xuẩn phải không?” Tôi bảo Châu rồi đứng dậy.

“Ông làm gì vậy, định đi hả?” Châu hỏi.

“Ừ” Tôi đáp “Cũng tới giờ phải đi rồi”.

“Phần rượu còn lại ông tính sao? Còn vừa đủ cho một thằng một ly?” Châu hỏi.

“Ừ, vậy thì làm sạch luôn” Tôi đáp.

Chúng tôi nốc cạn ly rượu và làm sạch tất cả những gì còn lại trên bàn.

Tôi lửng thửng đi xuống đường. Châu ở lại dọn dẹp nhà cửa. Tướng hắn thật xanh xao gầy guộc.

Ngoài đường gió lành lạnh thổi, tôi vừa đi vừa suy tưởng về tương lai. Bây giờ tôi phải đến trình báo mọi sự cho gã quản lý chung cư, và sau khi giải quyết xong vụ bà lão, tôi sẽ đến hiệu bánh mì chờ đến khi nào gặp lại được cái cô nàng dễ thương thích uống rượu mới thôi. Ít nhất tôi cũng còn nợ nàng tiền bánh mì mà. Tôi cần phải gặp nàng. Men rượu vẫn còn ngây ngất trong tôi, mọi việc trở nên đơn giản dễ dàng.

Đi đến cuối đường, có gã say rượu lảo đảo té nhào vào tôi. Cũng may, lúc ấy tôi không có súng trong tay. Nếu không, e rằng tôi đã bắn gã vỡ sọ rồi. Suốt dọc đường về nhà, mặt tôi đỏ gay giận dữ, ai gặp cũng ngoái đầu nhìn và lảng ra xa.

Tôi đến văn phòng quản lý chung cư. Một cô gái mặt lấm tấm mụn, tóc quăn quăn, mũi đỏ cà chua, đang ngồi soi gương tô son.

“Thưa cô, cho tôi gặp ông quản lý chung cư được không ạ?” Tôi hỏi. Cô gái không trả lời, vẫn tiếp tục thoa son. Tôi hắng giọng “Thưa cô cho tôi gặp ông quản lý ạ”.

“Hôm nay ông ấy nghỉ, ngày mai mới làm”. Cô gái ngước mặt lên trả lời và tiếp tục thoa son.

Tôi bước ra khỏi văn phòng thấy gã què đang khập khểnh chống nạng đi. Tiếng nạng đập lên mặt đường cồm cộp nghe thật khó chịu. Một đám con nít chạy theo nhái bộ đi cà thọt của gã.

Tôi quẹo vào nhà tôi, bước dọc lên cầu thang, dừng lại ở lầu một, chợt lợm giọng khi nghĩ đến cái xác của bà lão giờ này có thể đã rữa nát ra rồi. Tôi quên đóng cửa sổ và người ta nói rằng khi cửa sổ mở, xác chết thường rữa nát nhanh hơn. Hừm, tôi thật là ngu ngốc. Và gã quản lý khốn nạn kia không có ở nhà cho đến ngày mai nữa chứ! Tôi ngập ngừng đứng đó vài phút rồi tiếp tục bước lên lầu.

Tôi dừng lại trước cửa phòng tôi. Giờ này tôi có thể đi đến hiệu bánh mì chờ cô gái dễ thương được không nhỉ? Biết đâu, tôi không xin nàng cho tôi được ẩn náu ở nhà nàng hai, ba đêm được. Nhưng tôi chợt nhớ lại nàng vừa mua bánh mì hôm nay, không lý nào nàng lại mua bánh mì hai lần trong một ngày. Mà dù thế nào đi nữa cũng làm gì có chuyện đó xảy ra.

Có tiếng người đi cộp cộp từ cuối hành lang, Tâm, cô hàng xóm, từ từ hiện ra. Thấy tôi, nàng la lên mừng rỡ “Có ông già nào tìm anh đấy”

“Ông già hả! Ông ta như thế nào?” Tôi hỏi.

“Tôi không biết nữa” Tâm trả lời.

“Khi nào vậy? Cô có nói chuyện với ông ấy không?” Tôi hỏi.

“Có chứ” Tâm đáp.

“Vậy, tại sao cô không biết lúc nào?” Tôi hỏi.

“Cách đây hai giờ” Tâm đáp.

“Ông ta trông ra làm sao?” Tôi hỏi.

“Tôi cũng không biết nữa” Tâm trả lời rồi mở cửa bước vào phòng cô ấy.

Tôi vẫn đứng lặng trước cửa phòng tôi.

Tôi nghĩ “Đột nhiên bà lão biến mất. Tôi bước vào phòng và bà lão không còn ở đó. Thượng đế ơi, nếu phép lạ xảy ra, tôi sẽ tin ngài ngay lập tức”.

Tôi từ từ đẩy cửa bước vào một tay vẫn giữ chặt cánh cửa. Mùi xác chết vừa thổi ập vào mũi tôi. Tôi thò đầu qua khỏi cánh cửa và lạnh cứng cả người: Bà lão đang bò bằng cả tay lẫn chân về phía tôi.

Tôi đập mạnh cánh cửa, la lên thất thanh và chạy ùa đến trước phòng Tâm. Tâm mở cửa hỏi: “Anh gọi tôi phải không?”. Tôi run lẩy bẩy, hàm răng đánh lập cập, lưỡi tê điếng không nói ra lời, chỉ biết lắc đầu thay cho tiếng “không”. Tâm tiến sát đến tôi hỏi “Anh vừa nói chuyện với người nào phải không?”. Tôi lại lắc đầu.

“Thật là khùng” Tâm rủa và bước vào phòng ngoái đầu nhìn tôi vài lần trước khi đóng cửa lại.

“Mình không thể đứng đây như vậy được! Mình không thể đứng đây như vậy được!”. Tôi lặp đi lặp lại câu nói trong đầu. Mỗi lúc câu nói càng ngấm sâu hơn vào tôi. Tôi vẫn lặp đi lặp lại mãi đến khi câu nói xuyên thấu vào tâm não tôi.

“Đúng, mình không thể đứng đây như vậy mãi được”. Tôi bảo tôi, nhưng vẫn đứng đó bất động như kẻ tê liệt. Tai họa khủng khiếp đã giáng lên tôi. Nhưng với tôi, làm một cái gì đó, một cử động nhỏ thôi, còn khủng khiếp hơn nhiều. Trí não tôi xoáy mạnh như một cơn tụ phong mãnh liệt. Mắt tôi choáng ngợp đôi mắt bà lão chết lúc bà ấy bò chầm chậm về phía tôi.

Tôi phải nhào vào phòng đập vỡ sọ bà lão ra! Tôi nhất quyết phải làm như vậy. Tôi nhìn quanh, mắt sáng rực khi thấy cây cuốc nằm lăn lóc ở một góc tường không biết từ lúc nào. Tôi phải chụp lấy cây cuốc, nhào vào phòng và – Rầm.

Cơn run vẫn chưa dứt. Tôi đứng cong người vì nỗi lạnh trong tôi. Trí não tôi chuyển động lộn xộn, nhảy từ vị trí này sang vị trí khác. Tôi đứng yên lặng nghe trí não tôi như một kẻ đứng ngoài như chúng không phải là một phần tử trong cơ thể tôi.

Trí não tôi cất tiếng bảo tôi: “Người chết là những kẻ khốn nạn. Chúng ta bảo chúng: Hãy yên nghỉ trong bình yên. Nhưng chúng không cho ta cả yên nghỉ lẫn bình yên. Ta phải canh chừng và canh chừng chúng luôn luôn. Phải tìm ngay gã gác nhà xác. Công việc của gã chỉ có thế, canh chừng và canh chừng, không để người chết nhảy bậy nhảy bạ ra ngoài được. Chỉ một giây sơ hở của gã cũng có thể gây nên nhiều tai họa khủng khiếp. Như có lần, một người chết lợi dụng lúc gã gác dan đang tắm rửa, trốn ra khỏi nhà xác bò vào phòng liệm xác ăn mất mấy cuốn vải liệm. Mấy chuyên viên liệm xác phải xúm lại đánh đuổi gã ra khỏi phòng. Nhưng rồi họ cũng phải xuất tiền túi ra bồi thường cho mấy cuốn vải bị ăn mất. Một người chết khác bò vào nhà hộ sinh nhát các bà mẹ sắp sinh đến nổi có người sẩy thai và người chết nhào đến chụp cái bào thai vừa sẩy nhai ngấu nghiến khiến cô y tá can đảm phải chụp lấy cán chổi đập vào lưng gã, gã quay lại cắn mạnh bắp chân nàng. Cô y tá ngã lăn ra chết vì bị nhiễm độc. Ông thấy không, người chết là những kẻ khốn nạn nguy hiểm. Lúc nào mình cũng phải coi chừng chúng mới được”.

“Im đi” Tôi quát bảo trí não tôi. “Mày nói nhảm không à. Người chết đâu có cử động được”.

“Ừ” Trí não tôi bảo tôi “Vậy ông cứ vào phòng ông đi. Ở đó, như ông nói, có người chết không cử động được đấy”.

Đột nhiên tôi trở nên bướng bỉnh.

“Ừ, thì tao vào phòng tao đây”.

“Ông vào đi” Trí não tôi thách tôi.

Tôi muốn điên lên vì giọng thách thức xỏ lá ấy. Tôi chụp lấy cây cuốc phóng về phía của phòng. “Khoan đã” Trí não tôi la lên thảng thốt. Nhưng tôi đã mở khóa đạp cửa phòng.

Bà lão đang nằm gần ngay cửa ra vào úp mặt xuống đất. Tôi đứng gần đấy, tay giơ cao cán cuốc. Bà lão vẫn nằm yên bất động. Cơn nóng giận trôi qua, tôi bình tĩnh lại, trí não tôi lắng xuống. Tôi lại làm kẻ chỉ huy chúng.

“Trước tiên đóng cửa lại” Tôi ra lệnh cho tôi.

Tôi rút chìa khóa ngoài cửa ra bỏ vào túi quần bằng tay trái, tay phải tôi vẫn giữ chặt cây cuốc, mắt tôi vẫn không rời bà lão một giây lát. Tôi đóng cửa lại rón rén bước qua xác bà lão tiến gần đến cửa phòng. Tôi chợt phác thảo ra một kế hoạch thủ tiêu người thường thấy trong phim ảnh, sách vở, báo chí. Tôi sẽ bỏ xác bà lão vào một cái vali đem ra khỏi thành phố quẳng vào đầm lầy. Tôi biết một chỗ như vậy. Tôi chạy đến tủ kéo cái vali cũ kỹ trên nóc xuống. Có vài cuốn sách cũ, vải vụn trong ấy. Tôi lấy tất cả ra, dọn sạch cái vali.

Thình lình có tiếng cửa đóng rầm phía bên ngoài, tôi thấy xác bà lão như đang run lên bần bật.

Tôi chồm người đứng dậy chụp lấy cái cuốc. Bà lão vẫn nằm yên bất động. Tôi đứng yên lắng nghe. Thì ra gã công nhân hãng thép vừa trở về, có tiếng chân gã đi lại trong phòng gã. Lại có tiếng gõ cửa phòng gã nữa. Tôi nghe giọng gã và giọng Tâm nhưng không rõ họ nói gì. Hừ, nếu Tâm nói với gã về chuyện tôi nổi điên thì thật là nguy hiểm. Tôi phải qua phòng gã trấn tỉnh họ mới được.

Một lần nữa, tôi bước qua xác bà lão và dựa cây cuốc vào cửa, phòng khi trở lại, tôi cầm được cán cuốc trước khi bước vào nhà.

Tôi dừng lại trước phòng gã công nhân lắng nghe, thì ra gã đang nói về công việc của gã. Tôi gõ cửa bước vào, gã đưa tay chào tôi. Tôi chào lại gã và giả đò mượn cái mồi lửa. Hình như mọi việc đều tốt đẹp, Tâm chưa nói gì cả. Có lẽ cô ta đã quen với thái độ kỳ quặc của tôi và quên hết mọi chuyện xảy ra rồi.

Đột nhiên tôi lịm người đi khi nhớ lại, tôi chưa khóa cửa phòng. Nếu bà lão bò ra khỏi phòng thì sao? Tôi dậm chân định trở về phòng nhưng cố dằn mình lại sợ kinh động đến gã công nhân và Tâm.

Đầu óc căng thẳng, tôi bước đi như chạy về phòng mình.

Bên ngoài mọi vật vẫn yên tĩnh bình thường. Tôi mở cửa nhè nhẹ, hé nhìn vào trong. Bà lão vẫn nằm đó, bất động như trước, mặt úp xuống sàn nhà. Cây cuốc vẫn dựa bên cánh cửa như cũ. Tôi cầm cây cuốc lên bước vào phòng khóa cửa lại. Căn phòng nồng nặc mùi xác chết. Tôi bước qua xác bà lão đến bên cửa sổ ngồi xuống ghế bành, đốt một điếu thuốc. Tôi thấy đau bụng và buồn nôn. Tại sao tôi lại ngồi đây như thế nhỉ? Tôi phải làm gì trước khi xác bà lão ung rữa ra chứ! Bằng mọi cách tôi phải nhét xác bà lão vào vali cẩn thận. Không chừng bà lão lại cắn ngón tay tôi và tôi chết vì nhiễm độc xác chết. Không – không bao giờ.

“Ha – Ha” Tôi đột nhiên gầm lên “Bây giờ bà cắn tôi bằng gì? Bằng gì chứ? Răng bà ở đằng kia kìa!”.

Tôi xoay người trong ghế bành nhìn về phía góc phòng, theo trí nhớ của tôi thì hàm răng giả của bà lão nằm ở đấy. Nhưng không, không có hàm răng giả ở đó.

Tôi bắt đầu nghĩ “Không chừng bà lão chết bò quanh phòng kiếm lại hàm răng giả? Biết đâu bà ta đã tìm được và gắn lại hàm răng giả vào miệng rồi”.

Tôi cầm chặt lấy cán cuốc nhìn về góc phòng lần nữa. Không, hàm răng giả mất rồi. Tôi chạy đến giường kéo tấm ra trải xuống đi đến xác chết bà lão, tay phải tôi cầm chặt cán cuốc, tay trái tôi giữ chặt tấm ra trải giường.

Bà lão làm tôi sợ, cái sợ lờm lợm đáng ghét. Tôi dùng cây cuốc nâng đầu bà lão lên, miệng bà há ra. Vết bầm trên cằm, chỗ tôi đá bà, loang rộng thêm. Tôi nhìn vào miệng bà lão. Không, bà ấy không tìm ra hàm răng giả. Tôi kéo cán cuốc về, đầu bà lão rơi xuống đập mạnh lên sàn nhà.

Tôi trải tấm ra trải giường bên cạnh bà lão và dùng chân, dùng cuốc đẩy bà lên. Bà lão chồm hổm trên tấm ra, hai chân chụm lại ở đầu gối, hai tay quặp lên tận vai, trông như một con mèo trong mười hai thế vồ mồi.

Tôi gói bà lão lại và nâng bà lên. Bà ta nhẹ hơn tôi tưởng nhiều. Tôi đặt bà vào vali và lấy gân đóng lại. Tôi tưởng phải vất vả lắm chứ, không ngờ thật dễ dàng. Tôi khóa vali lại và đứng lên.

Cái vali đứng sừng sững trước mặt tôi, vẫn trang trọng như chứa đầy sách vở bên trong. Tôi thử giở vali lên, khá nặng, nhưng cũng được. Tôi dư sức xách xuống dưới đường.

Tôi nhìn đồng hồ. Năm giờ ba mươi. Được. Tôi ngồi xuống ghế bành hít một hơi khoan khoái và đốt một điếu thuốc.

Bụng tôi chợt quặn đau. Có lẽ vì xá xíu nguội? Hay vì thần kinh quá căng thẳng? Tôi không biết nữa. Có điều càng lúc bụng tôi càng đau hơn.

Tôi ngồi xuống hút thuốc phút này qua phút nọ. Mặt trời xuân chiếu thẳng qua cửa sổ. Tôi nhíu mày vì tia sáng mặt trời. Mặt trời lại ẩn núp sau ngôi nhà thật cao phía bên kia đường. Bóng mát chạy dọc theo trần nhà phủ xuống mặt đường và hắt lên mặt tôi. Tôi nhớ lại ngày hôm qua cũng vào giờ này, tôi đang ngồi đây viết một câu truyện vĩ đại. Trước mặt tôi, dòng chữ thật đẹp “Nhà Pháp thuật dáng người cao ráo” đang nhảy múa lung tung.

Tôi nhìn ra cửa sổ. Gã què đang chống nạng đi khập khểnh dọc đường. Tiếng nạng khua lên lộp cộp thật ồn ào. Hai người khách bộ hành đứng ôm bụng cười sặc sụa vì dáng đi của gã.

Tôi đứng dậy. Tới giờ rồi, tới giờ đem liệng xác bà lão xuống đầm lầy rồi. Tôi phải mượn gã công nhân ít tiền. Tôi bước sang phòng gõ cửa hỏi:

“Hòa ơi, ông có ở nhà không?”

“Có, chờ tôi một chút” Gã trả lời.

“Ông cho tôi mượn ba mươi đồng được không? Ngày mai lãnh lương tôi trả ngay” Tôi hỏi.

“Được chứ” Gã trả lời. Tôi nghe tiếng lịch kịch trong nhà và gã mở cửa ra đưa tôi ba tờ giấy mười đồng.

“Cám ơn ông nhiều lắm” Tôi nói.

“Không có gì. Khi nào có hãy trả không gấp lắm đâu” Gã đáp. Tôi chào gã rồi vội vã về phòng. Cái vali vẫn đứng đó sừng sững. “Nào, nhanh lên nào” Tôi tự nhủ.

Tôi xách vali vội vã bước ra khỏi phòng. Tâm thấy tôi xách vali vội la lên.

“Anh đi đâu vậy?”

“Đến nhà dì tôi” Tôi đáp.

“Anh về sớm chứ?” Tâm hỏi.

“Ừ, chỉ đem ít đồ đến cho dì tôi thôi, có lẽ ngày mai tôi về”. Tôi trả lời và chào Tâm.

Tôi bước hối hả xuống đường đi đến trạm xe bus. Vali nặng trĩu, tôi chuyền vali từ tay phải sang tay trái và tay trái sang tay phải vài lần mới đến trạm xe bus. Tôi rút đồng hồ ra coi giờ, còn gần nửa tiếng nữa xe mới tới. Tôi đi tới đi lui, nhìn quanh nhìn quẩn và run bắn người lên khi thấy có vài gã cảnh sát đi ngang qua. Rồi cũng đến lúc xe bus đến và dừng lại như một đấng cứu rỗi. Tôi mừng rỡ chạy vội lên xe, lục bóp mãi không ra một đồng tiền lẻ, tôi đành đưa tấm giấy mười đồng cho cô nàng soát vé. Không may nàng lại không có đủ tiền thối. Mặc cho tôi hết lời văng cả đờm dãi năn nỉ, nàng vẫn lạnh lùng lắc đầu từ chối và yêu cầu tôi bước ra khỏi xe ở trạm kế. Tôi đành tiu nghỉu khệ nệ xách vali bước xuống xe.

“Vậy là phải chờ thêm nửa tiếng nữa, không biết sẽ có chuyện gì nữa đây”. Tôi lẩm bẩm càu nhàu và hì hục xách vali chạy sang bên kia đường đổi tiền rồi vội vã chạy về trạm xe bus. Tôi mệt nhoài người, không nhớ là mình đã đổi vali từ tay trái sang tay phải mấy lần nữa. Tôi đứng thở hổn hển nhìn dáo dác chung quanh, chợt thấy nàng, cô gái dễ thương ở hiệu bánh mì, đang đi phía bên kia đường. Tôi nhấp chân định chạy vụt sang phía bên kia đường gặp nàng, cái vali nặng trĩu giữ chân tôi lại. Tôi nhớ đến bà lão trong vali. Tôi ghê tởm bà. Tôi sợ nhiễm độc bà. Tại sao lúc nào bà cũng nhảy xổm vào đời sống tôi, chực nhai ngấu nghiến tất cả những gì của tôi và chính tôi. Tôi thù ghét bà. Tôi muốn quẳng xác bà ra giữa đường cho xe cộ nghiền nát. Nhưng… tôi sợ.

Áo tôi ướt đẫm mồ hôi dán sát vào da thịt. Tôi liệng vali xuống đất và ngồi lên, quẹt tay chùi mồ hôi nhễ nhại trên trán. Có hai đứa trẻ đứng nhìn tôi chăm chú. Tôi tảng lờ nhìn ra ngoài đường như đang ngóng chờ ai. Chúng nhìn nhau huýt sáo và chỉ tay vào mặt tôi. Tôi giận run lên. Ước gì tôi chích cho chúng một mũi thuốc tê liệt được nhỉ!

Vì chúng, vì hai đứa trẻ khốn nạn mất dạy ấy, tôi đứng dậy xách vali lên đi đến trạm xe bus, mặt cố giữ vẻ thản nhiên lạnh lùng. Hai đứa trẻ vẫn tò mò quan sát tôi từ xa xa. “Lạ thật” Tôi nói lớn xách vali nhảy lên chiếc xe bus vừa dừng lại.

Tôi đến xe lửa đúng sáu giờ ba mươi. Tôi mua vé đến ga đầm lầy. Tôi bước lên xe lửa đặt vali xuống giữa hai hàng ghế và ngồi xuống. Bụng tôi chợt đau quặn thắt, tôi bóp chặt hai bàn tay lại, cố ghì lấy tiếng rên chưa thoát khỏi cổ họng.

 Hai tên cảnh sát đang áp giải một gã đàn ông về bót. Gã đi thểu nảo, đầu cúi gầm xuống đất, hai tay bị trói quặp ra sau.

Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Tôi nhìn đồng hồ: Bảy giờ đúng. Tôi muốn cất cánh bay bổng lên khi nghĩ đến lúc liệng xác bà lão xuống đầm lầy. Chỉ tiếc là tôi không đem theo cây gậy. Bà lão phải bị nhấn xuống bùn thật sâu mới đáng.

Gã hành khách bên cạnh dòm tôi soi mói. Tôi quay lưng về phía hắn nhìn ra cửa sổ. Bụng tôi lại quặn đau lên. Tôi nghiến răng, bóp chặt tay, hai chân co rút lại. Tôi gần đến đầm lầy rồi. Ánh hoàng hôn đọng lại trên ngôi chùa phản chiếu lấp lánh và tôi đi ngang qua biển hùng tráng. Nhưng tôi quên hết tất cả, hộc tốc chạy vào cầu tiêu: Người tôi co giật lên theo từng đợt sóng vỡ bờ.

Xe lửa chạy chậm chậm và dừng lại. Tôi vẫn ngồi trong cầu, người tê cứng vì sợ, sợ họ đuổi tôi ra khỏi cầu nếu xe lửa dừng quá lâu. Ước gì xe lửa chuyển bánh nhỉ! Ước gì xe lửa chuyển bánh nhỉ! Tiếng còi tàu, tiếng xe lửa chuyển bánh! Tôi khép mắt lại với nỗi sung sướng ngập tràn. Ôi, những khoảnh khắc tuyệt vời, những khoảnh khắc của tình yêu. Tôi thấy bắp thịt mình săn lại vạm vỡ và… nhão nhoét ra. Xe lửa ngừng lại lần nữa. Hình như có ai gài thắng cấp cứu thì phải. Trán tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh. Cơn lạnh làm tăng nhịp co thắt ở tim tôi. Tôi đứng dậy, đầu tựa vào tường. Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Tôi gom hết sức lực chạy ra khỏi nhà cầu.

Không còn ai trong toa. Tôi bước chầm chậm đến cửa sổ chỗ tôi ngồi. Đột nhiên tôi nhìn ngờ nghệch vô hồn về phía trước. Cái vali không còn ở đấy nữa. Chắc tôi đến lộn cửa sổ rồi! Tôi nhào đến cửa sổ kế, vẫn không có vali ở đó. Tôi chạy tới chạy lui loanh quanh trong toa. Tôi tìm trên trần, tôi lục dưới ghế, vẫn không có cái vali.

Thôi chết rồi, khi tôi đi cầu, chúng ăn cắp mất cái vali rồi. Tôi ngồi trên ghế hai mắt nóng ran muốn nổ tròng con ngươi. Không hiểu sao tôi lại nhớ đến tiếng chảo vỡ ở nhà Châu.

“Chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ?” Tôi tự hỏi. Hừ, bây giờ thì ai sẽ tin là mình không giết bà lão? Họ sẽ bắt mình ngay tại đây, hay ở ga đầm lầy, giống như gã đàn ông đầu cúi gằm xuống hai tay bị trói quặp ở ga.

Xe lửa chạy chậm lại tiến đến ga đầm lầy. Tôi mở toang cửa lấy đà nhảy xuống. Tôi mất thăng bằng cố gượng người đứng lại, sức nhảy hất tôi té nhào trên mặt đất đầy cát sỏi. Người tôi trầy trụa bê bết máu.

Tôi chạy vào khu rừng nhỏ kế cận. Khu rừng đầy cỏ tranh thật cao, không ai có thể thấy tôi được đằng sau ấy.

Một con sâu bướm màu xanh thẳm đang bò thảnh thơi trên mặt đất. Tôi quỳ xuống lấy ngón tay khều nhẹ nó. Con sâu bướm đập cánh chao người nhảy từ hướng này sang hướng khác loạn tung cả lên.

Tôi nhìn quanh. Không ai có thể thấy tôi được. Cơn run nhè nhẹ chạy dọc theo xương sườn tôi.

1989

(*) Trần Vũ đánh máy lại từ bản in trên tạp chí Văn Học, Nguyễn Mộng Giác chủ trương, số 41 phát hành tháng 6-1989, chuyên đề: Những Cây Viết Trẻ Ở Úc, trang 13 đến 29.