Cách đây gần hai trăm năm ông tôi đến một đất nước phương Đông
đi thuyền nhỏ vào bờ với bốn người thủy thủ.
Họ có ba khẩu súng dài và hai khẩu súng ngắn.
Quan địa phương mặc quốc phục, đi chân không,
vừa sợ sệt cúi chào vừa kín đáo ra hiệu
cho trai tráng sẵn sàng đâm khi ông tôi bước tới.
Vốn là kẻ khôn ngoan đã cập bến vô số địa đàng,
và nhiều lần chết đi sống lại qua bão tố,
ông tôi giữ khoảng cách hai thước từ lão già râu thưa
như chúng ta hiện đang làm trong thời kỳ dịch bệnh.
Họ nhìn nhau và bắt đầu đàm thoại
bằng hai thứ ngôn ngữ mà nếu muốn ghi lại
người ta chỉ có thể đổ một bình mực đen lên giấy trắng,
và để nó lan đi kiểu tùy tiện, cầu may
chút ý nghĩa sẽ lóe lên như đom đóm đầu mùa.
Nhưng lúc đó giữa trưa, và đom đóm
chỉ còn bay trong bốn mắt đỏ ngầu.
Ông tôi rút súng bắn lên trời, vang rền hơn sấm động,
hơn lời nguyền giáng xuống
một dân tộc tin theo thuyết luân hồi.
Rồi ông chỉ vào miệng mình và hạ bộ.
Tối hôm đó những vị khách không mời
được thiếu nữ dọn ăn và hầu rượu.
Lúc nửa đêm ngôi nhà ông đang ngủ
bốc cháy như một giàn lửa hỏa thiêu.
Chỉ duy nhất cô gái thoát ra ngoài,
tay che ngực và miệng cười khanh khách.
Kẻ không lâu sau đó phải vào rừng,
vì sinh ra một đứa bé tóc vàng.
Đó là bà cố tổ sáu đời của tôi, người lãnh đạo
cuộc chiến đấu chống lại những kẻ sau đó đến
trả thù cho ông tôi, kẻ tham vọng, phiêu lưu.
Và từ đó bắt đầu một lịch sử
của xâm lăng và nội chiến triền miên.
Khi giết chóc đã xong, chỉ còn lại tro tàn,
người ta xua đồng bào mình ra biển
như cách đây hai thế kỷ xua đuổi bà cố tôi,
kẻ can đảm, vào rừng, vì không chịu từ bỏ
một bào thai của định mệnh rắc rối.
Rừng đã cháy và biển đã bốc hơi.
Ở vào bước đường cùng, ta có thể dự đoán,
rằng một cuộc chiến mới rồi sẽ lại diễn ra,
nhưng lần này để chống bọn phản bội.
08.2020