Nguyễn Huy Hoàng dịch từ nguyên bản tiếng Anh, The Waste Land, by T.S. Eliot

T. S. Eliot sinh năm 1888 ở St. Louis, Missouri và nhập tịch Anh năm 1927. Là một nhà thơ, nhà soạn kịch, và nhà phê bình văn học, ông được trao giải Nobel văn chương năm 1948 “cho những đóng góp nổi bật, tiên phong của ông cho thơ ngày nay.” Ông qua đời ở London năm 1965.
Với “Đất Hoang,” Eliot đã đóng đinh mình vào vị trí trung tâm của chủ nghĩa Hiện Đại. Khởi thảo từ nhiều năm trước, khi đến với một hình thức gần như hoàn chỉnh và qua những góp ý chắc tay của Ezra Pound, người mà bài thơ này đề tặng. “Đất Hoang” xuất hiện lần đầu trên số tháng 10 năm 1922 của tờ The Criterion do chính Eliot làm chủ biên, và được xuất bản dưới dạng sách cũng trong năm đó ở Mỹ. Ít có bài thơ nào vừa ra đời đã gây được tiếng vang như “Đất Hoang,” một lý do có lẽ là bởi bài thơ đã gióng trực tiếp vào sự sụp đổ của tinh thần hiện đại, sự vỡ mộng mà nhiều người trong thời kỳ ấy cảm nhận được, ngay sau kết thúc của Thế Chiến Thứ Nhất, về một nền văn minh châu Âu từng có vẻ hoàn hảo mà nay lại phân mảnh, rời rạc và bất định hơn bao giờ hết. Giữa cái hãi hùng của mảnh đất hoang, làm sao tìm được ý nghĩa nào từ đống hình ảnh vụn? Với những viễn ảnh khủng khiếp của mình, bung ra khỏi những câu thúc về khuôn khổ ngôn ngữ, địa lý và thời đại, gần một thế kỷ sau khi ra đời, “Đất Hoang” của Eliot vẫn tiếp tục ám ảnh chúng ta trong chính kỷ nguyên mà chúng ta sống.
Nguyễn Huy Hoàng
Đất Hoang
“Nam Sibyllam quidem Cumis ego ipse oculis meis vidi in ampulla pendere, et cum illi pueri dicerent: Σίβυλλα τί θέλεις; respondebat illa: ἀποθανεῖν θέλω.”[i]
Cho Ezra Pound
il miglior fabbro.[ii]
- Sự chôn cất người chết
Tháng Tư là tháng ác nghiệt nhất, sinh
Tử đinh hương ra từ vùng đất chết, trộn
Ký ức và ham muốn, khuấy động
Rễ lì bằng mưa xuân.
Mùa đông giữ cho chúng ta ấm, phủ
Trái đất trong tuyết hay quên, nuôi
Một cuộc sống nhỏ bằng củ khô.
Mùa hè làm chúng ta ngạc nhiên, đến trên hồ Starnbergersee
Với một cơn mưa rào; chúng ta dừng lại ở hàng cột,
Và đi tiếp vào ánh nắng, vào vườn Hofgarten,
Và uống cà phê, và nói chuyện một giờ.
Bin gar keine Russin, stamm’ aus Litauen, echt deutsch.[iii]
Và khi chúng em còn nhỏ, ở nhà ông đại công tước,
Nhà anh họ em, anh ấy đưa em lên một chiếc xe trượt tuyết,
Và em rất sợ. Anh ấy nói, Marie,
Marie, bám chặt vào. Và xuống chúng em đi.
Ở trên núi, ở đó anh cảm thấy tự do.
Em đọc, gần suốt đêm, và đi về phía Nam vào mùa đông.
Những rễ nào bám, những cành nào mọc
Lên từ bãi rác sỏi đá này? Người con của loài người,
Anh không thể nói, hay đoán, bởi anh chỉ biết
Một đống hình ảnh vụn, nơi mặt trời đập,
Và cây chết không cho nơi trú ẩn, dế không sự an ủi,
Và đá khô không tiếng nước. Chỉ
Có mỗi bóng râm dưới tảng đá đỏ này,
(Hãy đi vào dưới bóng râm của tảng đá đỏ này),
Và ta sẽ cho anh thấy một cái gì khác với cả
Cái bóng của anh lúc buổi sáng sải bước phía sau anh
Lẫn cái bóng của anh lúc buổi chiều mọc lên để chào anh;
Ta sẽ cho anh thấy nỗi sợ trong một nắm bụi.
Frisch weht der Wind
Der Heimat zu,
Mein Irisch Kind,
Wo weilest du?[iv]
“Anh cho em những bông lan dạ hương lần đầu một năm trước;
“Họ gọi em cô gái dạ hương lan.”
—Nhưng khi ta trở về, muộn, từ vườn dạ hương lan,
Cánh tay em đầy, và tóc em ướt, và tôi không thể
Nói, và đôi mắt tôi thất trận, tôi không
Sống cũng không chết, và tôi biết không gì,
Nhìn vào lòng ánh sáng, sự im lặng.
Oed’ und leer das Meer.[v]
Madame Sosostris, bà đồng nổi tiếng,
Bị một cơn cảm nặng, tuy thế
Vẫn được biết đến là người đàn bà thông thái nhất châu Âu,
Với một sấp bài hung hiểm. Đây, bà nói,
Là lá bài của ông, Người thủy thủ Phoenicia chết đuối,
(Kia là những hòn ngọc từng là mắt anh ta. Nhìn!)
Đây là Belladonna, Quý cô của những vách đá,
Quý cô của những tình hình.
Đây là người đàn ông với ba cây gậy, và đây là Bánh xe,
Và đây là thương gia một mắt, và lá này
Trống trơn, là cái mà anh ta mang trên lưng,
Mà ta bị cấm nhìn. Ta không thấy
Lá Người treo ngược. Hãy sợ cái chết bởi nước.
Ta thấy những đám người, đi quanh một vòng tròn.
Cảm ơn bà. Nếu ông có gặp bà Equitone thân yêu,
Bảo bà ấy ta tự mang lá số:
Phải thật cẩn thận trong thời buổi này.
Thành phố Ảo,
Dưới làn sương nâu của một bình minh mùa đông,
Một đám đông tuôn qua Cầu London, rất nhiều người,
Tôi không ngờ cái chết đã hủy hoại rất nhiều người.
Những tiếng thở dài, ngắn và thất thường, buông ra,
Và mỗi người đều dán chặt mắt xuống phía trước chân mình.
Tuôn lên ngọn đồi rồi xuống phố King William,
Đến nơi Saint Mary Woolnoth canh giờ
Với một âm thanh chết trên lần điểm cuối cùng của chín.
Ở đó tôi thấy một người tôi quen và chặn anh ta lại, kêu: “Stetson!
“Anh người ở cùng tôi trên những con tàu xứ Mylae!
“Cái xác anh chôn năm ngoái trong vườn,
“Nó đã nảy mầm chưa? Nó sẽ ra hoa năm nay chứ?
“Hay sương giá đột ngột đã làm xáo trộn luống đất của nó rồi?
“Ôi hãy giữ con Chó cách xa hàng rào, bạn của con người,
“Bằng không lấy móng nó sẽ đào nó lên lần nữa!
Anh! hypocrite lecteur!—mon semblable—mon frère!”[vi]
- Một ván cờ
Cái ghế cô ngồi, như một cái ngai vàng đánh bóng,
Phát sáng trên đá cẩm thạch, nơi tấm gương
Được đỡ bởi những cột chạm những vòng dây leo trĩu quả
Mà từ đó một Cupidon bằng vàng ló ra
(Một Cupidon khác giấu mắt đằng sau cánh)
Nhân đôi ngọn lửa của cái chân nến bảy nhánh
Phản chiếu ánh sáng trên bàn trong khi
Sự lấp lánh trên đồ trang sức của cô vươn lên đón nó,
Từ những hộp sa tanh đổ ra trong sự xa hoa giàu có;
Trong những cái lọ ngà và kính màu
Tháo nút, lẩn khuất những thứ nước hoa tổng hợp kỳ lạ,
Dạng kem, bột, hoặc chất lỏng—làm bối rối, hoang mang
Và nhấn nhìm cảm giác trong những mùi hương; được khuấy động
Bởi không khí tươi mới từ cửa sổ, những thứ ấy bay lên
Trong sự vỗ béo những ngọn lửa của nến kéo dài,
Quẳng làn khói của chúng lên mái,
Khuấy động họa tiết trên trần nhà cốp-phơ.
Thanh gỗ biển lớn được nuôi bằng đồng
Cháy lên màu xanh lục và cam, đóng khung bằng đá màu,
Dưới ánh sáng buồn một con cá heo chạm trổ bơi.
Trên cái bệ sưởi cổ được trưng bày
Như thể một cửa sổ đưa ra trên cảnh rừng
Sự biến hóa của Philomel, bởi vị vua man rợ
Đã cưỡng buộc thật thô bạo; song ở đó con chim cơn ca
Đã lấp đầy cả hoang mạc bằng giọng hót bất khả xâm phạm
Và nàng vẫn khóc, và thế giới vẫn theo đuổi,
“Giức Giức” với những đôi tai bẩn.
Và những gốc cây khô héo khác của thời gian
Được kể trên các bức tường; những hình dạng nhìn chằm chằm
Vướn ra, vướn xuống, làm lặng căn phòng khép kín.
Những bước chân xáo trộn trên cầu thang.
Dưới ánh lửa, dưới bàn chải, mái tóc cô
Trải ra ở những điểm bốc hỏa
Tỏa sáng thành lời, rồi sẽ yên lặng một cách dã man.
“Đêm nay thần kinh của em rất tệ. Phải, tệ. Ở lại với em đi.
“Nói với em đi. Vì sao anh không bao giờ nói. Nói đi.
“Anh đang nghĩ về cái gì thế? Suy nghĩ gì? Gì?
“Chẳng bao giờ em biết anh đang nghĩ gì. Nghĩ.”
Anh nghĩ chúng ta đang ở trong hẻm chuột
Nơi người chết đánh mất xương của họ.
“Tiếng động gì thế?”
Gió dưới cửa.
“Giờ tiếng động gì thế? Gió đang làm gì thế.”
Không gì lại không gì.
“Anh
“Không biết gì sao? Anh không thấy gì sao? Anh không nhớ
“Gì sao?”
Anh nhớ
Kia là những hòn ngọc từng là mắt anh ta.
“Anh còn sống, hay không? Chẳng có gì trong đầu anh sao?
Nhưng
Ôi ôi ôi ôi cái điệu Rag Shakespeherian ấy—
Nó thật thanh nhã
Thật thông minh
“Em phải làm gì bây giờ? Em phải làm gì?”
“Em sẽ chạy ra ngoài như em, và bước xuống phố
“Với mái tóc rủ, thế. Chúng ta sẽ làm gì ngày mai?
“Chúng ta sẽ làm gì chứ?”
Nước nóng lúc mười giờ.
Và nếu trời mưa, một chiếc xe có mái lúc bốn giờ.
Và chúng ta sẽ chơi một ván cờ,
Nhấn đôi mắt không nắp và chờ đợi một tiếng gõ cửa.
Khi chồng Lil được xuất ngũ, tôi nói—
Tôi không ậm ừ, tôi tự nói với cô ấy,
NHANH LÊN LÀM ƠN ĐẾN LÚC ĐÓNG CỬA RỒI
Giờ Albert sắp quay trở lại, thông minh lên một chút đi.
Anh ấy sẽ muốn biết cậu đã làm gì với số tiền anh ấy cho cậu
Để làm răng. Anh ấy cho mà, tớ đã ở đó.
Cậu bị sâu hết cả rồi, Lil, và làm một bộ hàm đẹp,
Anh ấy nói, tớ thề, anh không dám nhìn em nữa.
Và tớ cũng thế, tôi nói, và hãy nghĩ về Albert tội nghiệp,
Anh ấy đã đi lính bốn năm, anh muốn có một thời gian thoải mái,
Và nếu cậu không cho anh cái đó, có những người khác sẽ cho, tôi nói.
Ôi có những người khác sao, cô ấy nói. Đại loại thế, tôi nói.
Tớ sẽ biết phải cảm ơn ai rồi, cô ấy nói, và nhìn thẳng vào tôi.
NHANH LÊN LÀM ƠN ĐẾN LÚC ĐÓNG CỬA RỒI
Nếu không thích cậu có thể cứ tiếp tục như thế, tôi nói.
Những người khác có thể chọn và lựa nếu như cậu không thể.
Nhưng nếu Albert bỏ đi, thì không phải là không nói trước.
Cậu nên thấy xấu hổ, tôi nói, trông thật cổ lỗ sĩ.
(Và cô ấy mới có ba mươi mốt.)
Tớ không đừng được, cô ấy nói, xị mặt,
Tớ đã mua những viên thuốc ấy, để bỏ nó đi.
(Cô đã có năm con, và suýt chết vì cậu George trẻ.)
Dược sĩ nói nó sẽ ổn cả thôi, nhưng tớ không bao giờ như trước.
Cậu thật đúng là đồ ngốc nghếch, tôi nói.
Ôi, nếu Albert không bỏ cậu lại một mình, thì đấy, tôi nói,
Cậu cưới để làm gì nếu không muốn có con?
NHANH LÊN LÀM ƠN ĐẾN LÚC ĐÓNG CỬA RỒI
Chà, Chủ nhật ấy Albert ở nhà, bọn họ có món gammon nóng,
Và họ mời tớ đến bữa tối, để chớp lấy vẻ đẹp của nó nóng—
NHANH LÊN LÀM ƠN ĐẾN LÚC ĐÓNG CỬA RỒI
NHANH LÊN LÀM ƠN ĐẾN LÚC ĐÓNG CỬA RỒI.
Ngủ ngon Bill. Ngủ ngon Lou. Ngủ ngon May. Ngủ ngon.
Ta ta. Ngủ ngon. Ngủ ngon.
Ngủ ngon, các cô, ngủ ngon, các quý cô, ngủ ngon, chúc ngủ ngon.
- Kinh lửa cháy
Chiếc lều của dòng sông đã hỏng: những ngón tay cuối cùng của lá
Nắm chặt và chìm vào bờ sông ướt. Gió
Băng qua vùng đất nâu, không ai nghe thấy. Các thần nữ đã ra đi.
Dòng Thames ngọt, khẽ khàng chảy, cho đến khi tôi kết thúc bài ca của mình.
Con sông không mang những cái chai rỗng, giấy bọc sandwich,
Khăn tay lụa, hộp các tông, những đầu mẩu thuốc lá
Hay những lời chứng khác của những đêm hè. Các thần nữ đã ra đi.
Và bạn bè của họ, những người thừa kế lảng vảng của các giám đốc thành phố;
Đã ra đi, để lại không địa chỉ.
Bên hồ nước Leman tôi ngồi xuống và khóc…
Dòng Thames ngọt, khẽ khàng chảy cho đến khi tôi kết thúc bài ca của mình.
Dòng Thames ngọt, khẽ khàng chảy, bởi tôi không nói to hay nói dài.
Nhưng sau lưng tôi trong một vụ nổ lạnh, tôi nghe thấy
Tiếng xương sột soạt, và tiếng khúc khích truyền từ tai sang tai.
Một con chuột rón rén đi qua đám cây cối
Kéo cái bụng nhơm nhớp của nó trên bờ
Trong khi tôi câu cá trên con kênh buồn tẻ
Vào một tối mùa đông đằng sau nhà máy khí
Suy ngẫm về vị vua con tàu đắm của anh trai tôi
Và về vị vua cái chết của cha tôi trước mặt anh.
Những cái xác trắng trần truồng trên đất ẩm thấp
Và những khúc xương đúc trong một gác xép nhỏ thấp khô,
Chỉ có bàn chân chuột sục sạo, từ năm này qua năm khác.
Nhưng sau lưng tôi thỉnh thoảng tôi nghe thấy
Những tiếng còi và động cơ, thứ sẽ mang lại
Sweeney cho bà Porter vào mùa xuân.
Ôi trăng sáng rọi lên bà Porter
Và lên con gái bà
Họ rửa chân trong nước soda
Et O ces voix d’enfants, chantant dans la coupole![vii]
Chuýt chuýt chuýt
Giức giức giức giức giức giức
Cưỡng buộc thật thô bạo.
Tereu
Thành phố Ảo
Dưới làn sương nâu của một trưa mùa đông
Ông Eugenides, thương gia Smyrna
Chưa cạo râu, với một túi đầy nho khô
C.i.f. London: giấy tờ trong tầm mắt,
Hỏi ta bằng tiếng Pháp bình dân
Tới bữa trưa ở Khách sạn Phố Cannon
Theo sau là một cuối tuần ở Khách sạn Metropole.
Vào giờ tím, khi đôi mắt và lưng
Quay lên từ bàn làm việc, khi động cơ con người chờ
Như một chiếc taxi đang thình thịch đợi,
Ta Tiresias, dẫu mù, đập giữa hai cuộc đời,
Ông già với bộ ngực đàn bà nhăn nheo, có thể thấy
Vào giờ tím, cái giờ buổi tối đang vươn
Về nhà, và đưa người thủy thủ về nhà từ biển,
Cô nhân viên đánh chữ vào giờ nghỉ, dọn đồ ăn sáng, nhóm
Lò, và đặt đồ ăn vào những chiếc hộp thiếc.
Ngoài cửa sổ phơi một cách đầy nguy hiểm
Những món tạp nhạp đang khô được những tia nắng cuối chạm vào,
Trên đi văng chất đống (giường của cô ban đêm)
Tất, dép, áo lót dây, và áo ngực.
Ta Tiresias, ông già với cặp vú nhăn nheo
Nhận thức được cảnh ấy, và báo trước phần còn lại—
Ta cũng đang chờ vị khách được mong đợi.
Anh ta, chàng trai trẻ mụn nhọt, đến,
Thư ký của một tay môi giới nhà nhỏ, với một cái nhìn táo bạo,
Một trong những kẻ thấp bé mà sự bảo đảm ngồi lên
Như một cái mũ lụa trên một tay triệu phú xứ Bradford.
Thời gian bây giờ thuận tiện, như anh ta đoán,
Bữa ăn đã kết thúc, cô ta chán và mệt,
Những nỗ lực để đưa cô ta vào sự ve vuốt
Vẫn chưa được đồng tình, nếu không phải là không mong muốn.
Đỏ bừng và đã quyết định, anh ta tấn công ngay lập tức;
Đôi bàn tay khám phá không gặp phải sự phòng thủ;
Sự phù phiếm của anh ta không đòi hỏi sự hồi đáp,
Và chào đón sự thờ ơ.
(Và ta Tiresias đã chịu đựng trước tất cả những gì
Được thực hiện trên chính chiếc giường hay đi văng này;
Ta kẻ đã ngồi bên Thebes bên dưới bức tường
Và đi giữa những kẻ thấp cùng nhất của người chết.)
Trao một nụ hôn đầy kẻ cả cuối cùng,
Và dò đường, thấy cầu thang không sáng…
Cô quay đi và nhìn trong gương một thoáng,
Gần như không ý thức về người tình đã đi;
Não cô cho một ý nghĩ nửa hình thành đi qua:
“Giờ đã xong: và mình mừng là nó đã kết thúc.”
Khi người phụ nữ đáng yêu cúi đầu trước sự ngu ngốc
Và bước lại về phòng, một mình,
Cô vuốt tóc bằng bàn tay tự động,
Và đặt một bản ghi lên máy hát.
“Thứ nhạc này len lỏi qua ta trên những vùng nước”
Và đi dọc Strand, lên Queen Victoria Street.
Ôi Thành phố thành phố, đôi khi tôi có thể nghe
Cạnh một quán bar công cộng ở phố Lower Thames,
Tiếng rên rỉ dễ chịu của một cây măng đô lin
Và một tiếng kêu vang và một cuộc chuyện trò bên trong
Nơi ngư dân nằm dài ban trưa: nơi những bức tường
Của Magnus Martyr nắm giữ
Sự lộng lẫy không thể giải thích của màu vàng và trắng kiểu Ionia.
Dòng sông đổ mồ hôi
Dầu và hắc ín
Những chiếc sà lan trôi
Với thủy triều đảo
Những cánh buồm đỏ
Rộng
Ngược gió, đung đưa trên cột buồm nặng.
Những chiếc sà lan giạt
Những khúc gỗ trôi
Xuống Greenwich đến
Qua Isle of Dogs.
Weialala leia
Wallala leialala
Elizabeth và Leicester
Những mái chèo đập
Đuôi tàu được hình thành
Một lớp vỏ mạ
Đỏ và vàng
Con sóng lanh lợi
Gợn sóng cả đôi bờ
Gió Tây Nam
Mang xuôi dòng
Tiếng chuông ngân vang
Những ngọn tháp trắng
Weialala leia
Wallala leialala
“Xe điện và những cây bụi.
Highbury làm tôi chán. Richmond và Kew
Phục nguyên tôi. Đến Richmond tôi giơ đầu gối
Ngửa trên sàn của một chiếc xuồng hẹp.”
“Chân tôi ở Moorgate, và tim tôi
Ở dưới chân tôi. Sau biến cố
Anh khóc. Anh hứa ‘một khởi đầu mới.’
Tôi không bình luận. Tôi nên oán giận gì?”
“Trên Margate Sands.
Tôi chẳng thể kết nối
Cái gì với cái gì.
Những cái móng tay gãy của những bàn tay bẩn.
Người của tôi những người khiêm tốn người mong đợi
Không gì.”
la la
Tới Carthage rồi tôi đi
Cháy cháy cháy cháy
Hỡi Chúa tể Người hãy kéo con ra
Hỡi Chúa tể Người hãy kéo
cháy
- Cái chết bởi nước
Phlebas người Phoenicia, chết đã nửa tháng,
Đã quên tiếng kêu của những con hải âu, và sóng biển sâu
Và lãi và lỗ.
Một dòng chảy dưới biển
Nhặt xương anh ta trong tiếng thì thầm. Trong thăng và trầm
Anh ta đã đi qua những giai đoạn của tuổi tác và tuổi trẻ
Bước vào vòng xoáy.
Người ngoại hay người Do Thái
Hỡi các người những kẻ quay bánh xe và nhìn về phía gió,
Hãy xem xét Phlebas, người đã từng điển trai và cao như các người.
- Sấm nói gì
Sau ánh đuốc đỏ trên những khuôn mặt đẫm mồ hôi
Sau sự im lặng băng giá trong những khu vườn
Sau cơn đau ở những nơi sỏi đá
Tiếng la hét và tiếng khóc
Nhà tù và cung điện và tiếng rền
Của sấm của mùa xuân trên những ngọn núi xa xôi
Y kẻ đã sống bây giờ đã chết
Chúng ta những kẻ đã sống bây giờ đang chết
Với một chút kiên nhẫn
Ở đây không có nước mà chỉ có đá
Đá và không có nước và con đường cát
Con đường uốn lượn bên trên giữa những ngọn núi
Là những ngọn núi đá không nước
Nếu có nước chúng ta nên dừng lại uống
Giữa những tảng đá người ta không thể dừng hoặc nghĩ
Mồ hôi thì khô và chân ở trong cát
Nếu chỉ có nước giữa những tảng đá
Ngọn núi chết cái miệng của hàm răng sâu không thể nhổ
Ở đây người ta không thể đứng hay nằm hay ngồi
Thậm chí còn chẳng có sự im lặng trên những ngọn núi
Mà tiếng sấm khô vô trùng không mưa
Thậm chí còn chẳng có sự cô độc trên những ngọn núi
Mà những bộ mặt đỏ rầu rầu cười khẩy và càu nhàu
Từ cửa của những ngôi nhà lụp xụp
Nếu có nước
Và không đá
Nếu có đá
Và cũng có nước
Và nước
Một mùa xuân
Một vũng nước giữa những tảng đá
Nếu chỉ có tiếng nước
Không phải tiếng ve sầu
Và cỏ khô hát
Mà tiếng nước trên một tảng đá
Nơi con hoét ẩn sĩ hót trên những cây thông
Rỏ giọt rỏ giọt giọt giọt giọt
Nhưng không có nước
Ai là người thứ ba luôn đi bên cạnh anh?
Khi tôi đếm, chỉ có anh và tôi đi cùng nhau
Nhưng khi tôi nhìn lên trên con đường trắng
Luôn có một người khác đi bên cạnh anh
Lướt đi bọc trong áo choàng nâu, trùm đầu
Tôi không biết là đàn ông hay đàn bà
—Nhưng ai ở phía bên kia anh đó?
Cái tiếng gì cao trên không trung
Tiếng rì rầm của lời than của mẹ
Những đoàn người đội mũ trùm đầu là ai
Đi trên đồng bằng bất tận, vấp ngã vào đất nứt
Chỉ được bao quanh bởi chân trời phẳng
Thành phố nào trên những ngọn núi
Nứt vỡ và cải cách và bùng nổ trong không khí tím
Những tòa tháp đổ
Jerusalem Athens Alexandria
Vienna London
Ảo
Một người đàn bà kéo mái tóc đen dài căng ra
Và chơi nhạc thì thầm trên những sợi tóc
Và những con dơi với bộ mặt trẻ con trong ánh sáng tím
Huýt sáo, và đập cánh
Và bò lộn đầu xuống trên một bức tường đen kịt
Và lộn ngược trong không khí là những tòa tháp
Ngân những tiếng chuông hồi tưởng, canh giờ
Và những giọng nói hát từ những bể chứa rỗng và những cái giếng cạn.
Trong cái hố mục nát giữa những ngọn núi này
Dưới ánh trăng mờ nhạt, cỏ đang hát
Trên những ngôi mộ sụp, về nhà nguyện
Chỉ có nhà nguyện trống, chỉ có nhà của gió.
Nó không có cửa sổ, và cánh cửa xoay,
Những khúc xương khô chẳng thể làm hại ai.
Chỉ một con gà trống đứng trên mái nhà
Cúc cù cucu cúc cù cucu
Trong một ánh chớp. Rồi một cơn gió ẩm
Mang mưa
Dòng Ganga chìm, và những chiếc lá què
Đợi mưa, trong khi mây đen
Tập hợp đằng xa, trên ngọn Himavant.
Rừng cúi người, khom mình trong im lặng.
Rồi sấm nói
DA
Datta: chúng ta đã trao gì?
Bạn ta ơi, máu rung động tim ta
Sự táo bạo khủng khiếp của sự đầu hàng của một khoảnh khắc
Mà một thời đại cẩn tắc không bao giờ có thể rút lại
Bằng điều này, và chỉ điều này, chúng ta đã tồn tại,
Nó sẽ không có mặt trong cáo phó của chúng ta
Hay trong những ký ức mà con nhện có ích phủ lên
Hay dưới những niêm phong mà tay luật sư gầy xé bỏ
Trong những căn phòng trống của chúng ta
DA
Dayadhvam: Ta đã nghe tiếng chìa
Vặn trong cửa một lần và vặn chỉ một lần
Chúng ta nghĩ đến chìa, mỗi người trong nhà tù của mình
Nghĩ đến chìa, mỗi người xác nhận một nhà tù
Chỉ lúc màn đêm buông, những lời đồn phong thanh
Hồi sinh trong giây lát một Coriolanus vụn vỡ
DA
Damyata: Con thuyền đã đáp lại
Mừng rỡ, trước bàn tay chuyên cánh buồm và mái chèo
Biển lặng, trái tim ngươi đáng cũng nên đáp lại
Mừng rỡ, khi được mời, đập ngoan ngoãn
Trước đôi tay kiểm soát
Ta ngồi trên bờ
Câu cá, với đồng bằng khô cằn phía sau
Ít nhất ta sẽ đặt những vùng đất của mình theo thứ tự?
Cầu London đang sụp đổ sụp đổ sụp đổ
Poi s’ascose nel foco che gli affina[viii]
Quando fiam uti chelidon[ix]—Ôi chim én chim én
Le Prince d’Aquitaine à la tour abolie[x]
Những mảnh vỡ ấy ta đã vun cho tàn tích của mình
Vậy thì ta sẽ chiều lòng người. Hieronymo đã lại nổi điên.
Datta. Dayadhvam. Damyata.
Shantih shantih shantih
Nguyễn Huy Hoàng dịch từ nguyên bản tiếng Anh, The Waste Land, by T.S. Eliot
——————————————————————————————————————–
T. S. Eliot: Các ghi chú cho “Đất Hoang”
Không chỉ nhan đề, mà kế hoạch và rất nhiều biểu tượng ngẫu nhiên của bài thơ đã được gợi ý từ cuốn sách của bà Jessie L. Weston về huyền thoại chén thánh: From Ritual to Romance (Macmillan). Quả thật, tôi nợ ơn vô cùng, cuốn sách của bà Weston sẽ làm sáng tỏ những khó khăn của bài thơ tốt hơn nhiều so với những gì mà các ghi chú của tôi có thể làm được; và tôi giới thiệu nó (ngoài lợi ích lớn lao của chính cuốn sách ấy) tới bất kỳ ai nghĩ rằng việc làm sáng tỏ bài thơ như vậy là bõ sức. Tôi cũng nợ nói chung một tác phẩm nhân học khác, một tác phẩm đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế hệ chúng ta; tôi muốn nói đến The Golden Bough; tôi đã dùng đặc biệt là hai tập Adonis, Attis, Osiris. Bất cứ ai quen thuộc với các tác phẩm này sẽ lập tức nhận ra trong bài thơ một số tham chiếu nhất định đến các nghi thức của thực vật.
- Sự chôn cất người chết
Dòng 20. Cf. Ezekiel II, i.
23. Cf. Ecclesiastes XII, v.
31. Xem Tristan und Isolde, I, các dòng 5–8.
42. Như trên, III, dòng 24.
46. Tôi không quen thuộc với cấu tạo chính xác của bộ bài Tarot, mà hiển nhiên tôi đã biến đổi nó cho sự thuận tiện của riêng mình. Người treo ngược, một lá trong bộ bài truyền thống, phù hợp với mục đích của tôi theo hai cách: bởi trong tâm trí tôi, anh ta gắn với vị thần bị treo ngược của Frazer, và bởi tôi gắn anh ta với người trùm đầu trong hành trình của các môn đồ đến Emmaus trong Phần V. Người thủy thủ Phoenicia và người Thương gia xuất hiện sau; cả “những đám người,” và Cái chết bởi nước được hoàn thành trong Phần IV. Người đàn ông với ba cây gậy (một lá thật trong bộ bài Tarot) tôi gắn, một cách khá tùy tiện, với Fisher King.
60. Cf. Baudelaire:
“Fourmillante cité, cité pleine de rêves,
“Où le spectre en plein jour raccroche le passant.”
63. Cf. Inferno III, 55–57:
“si Iunga tratta
di gente, ch’io non avrei mai creduto
che morte tanta n’avesse disfatta.”
64. Cf. Inferno IV, 25–27:
“Quivi, secondo che per ascoltare,
“non avea pianto, ma’ che di sospiri,
“che l’aura eterna facevan tremare.”
68. Một hiện tượng mà tôi thường nhận thấy.
74. Cf. lời than trong White Devil của Webster.
76. Xem Baudelaire, Lời nói đầu cho Fleurs du Mal.
- Một ván cờ
77. Cf. Antony and Cleopatra, II. ii. dòng 190.
92. Laquearia (mái). Xem Aeneid, I. 726:
“Dependent lychni laquearibus aureis incensi, et noctem flammis funalia vincunt.”
98. Cảnh rừng. Xem Milton, Paradise Lost, IV. 140.
99. Xem Ovid, Metamorphoses, VI, Philomela.
100. Cf. Phần III, dòng 204.
115. Cf. Phần III, dòng 195.
118. Cf. Webster: “Is the wind in that door still?”
126. Cf. Phần I, 37, 48.
138. Cf. ván cờ trong Women Beware Women của Middleton.
- Kinh lửa cháy
176. Xem Spenser, Prothalamion.
192. Cf. The Tempest, I, ii.
196. Cf. Marvell, To His Coy Mistress.
197. Cf. Day, Parliament of Bees:
“When of the sudden, listening, you shall hear
A noise of horns and hunting, which shall bring
Actaeon to Diana in the spring
Where all shall see her naked skin…”
199. Tôi không biết nguồn gốc của bản ballad mà những dòng này được lấy ra từ đó: nó được tường thuật lại cho tôi từ Sydney, Úc.
202. Xem Verlaine, Parsifal.
210. Các túi nho khô được niêm yết ở mức giá “miễn phí vận chuyển và bảo hiểm tới London”; và vận đơn đường biển v.v. được trao cho người mua khi thanh toán hối phiếu.
218. Tiresias, tuy chỉ là một khán giả đơn thuần và không thực sự là một “nhân vật,” vẫn là người quan trọng nhất trong bài thơ, hợp nhất tất cả những người còn lại. Giống như người thương gia một mắt, người bán nho khô, hợp vào Người thủy thủ Phoenicia, và Người thủy thủ Phoenicia cũng không hoàn toàn tách biệt với Thái tử Ferdinand của Naples, tất cả những người phụ nữ đều là một phụ nữ và hai giới gặp nhau ở Tiresias. Những gì Tiresias nhìn thấy, trên thực tế, chính là chất của bài thơ. Cả đoạn sau từ Ovid rất đáng quan tâm về mặt nhân học:
“Cum Iunone iocos et maior vestra profecto est
Quam, quae contingit maribus,’ dixisse, ‘voluptas.’
Illa negat; placuit quae sit sententia docti
Quaerere Tiresiae: venus huic erat ultraque nota.
Nam duo magnorum viridi coeuntia silva
Corpora serpentum baculi violaverat ictu
Deque viro factus, mirabile, femina septem
Egerat autumnos; octavo rursus eosdem
Vidit et ‘est vestrae si tanta potentia plagae,’
Dixit ‘ut auctoris sortem in contraria mutet,
Nunc quoque vos feriam!’ percussis anguibus isdem
Forma prior rediit genetivaque venit imago.
Arbiter hic igitur sumptus de lite iocosa
Dicta Iovis firmat; gravius Saturnia iusto
Nec pro materia fertur doluisse suique
Iudicis aeterna damnavit lumina nocte,
At pater omnipotens (neque enim licet inrita cuiquam
Facta dei fecisse deo) pro lumine adempto
Scire futura dedit poenamque levavit honore.”
221. Đây có thể không giống chính xác như các dòng của Sappho, nhưng tôi nghĩ đến những ngư dân “dọc bờ” hay “xuồng ba lá,” trở về lúc đêm buông.
253. Xem Goldsmith, khúc hát trong The Vicar of Wakefield.
257. Xem The Tempest, như trên.
264. Nội thất của nhà thờ St. Magnus Martyr với tôi là một trong số những nội thất tốt nhất trong số các nội thất của Wren. Xem The Proposed Demolition of Nineteen City Churches: (P. S. King & Sons, Ltd.).
266. Khúc hát của (ba) người con gái sông Thames bắt đầu từ đây. Từ dòng 292 đến dòng 306 họ lần lượt nói. Xem Götterdämmerung, III, i: Những người con gái sông Rhine.
279. Xem Froude, Elizabeth, tập I, chương iv, thư de Quadra gửi Philip của Tây Ban Nha:
“Buổi chiều, chúng thần ngồi trên sà lan, xem các trò chơi trên sông. (Nữ hoàng) ở một mình với Lord Robert còn thần ở trên boong thượng, khi họ bắt đầu nói chuyện vô nghĩa, và đến mức cuối cùng Lord Robert nói, khi thần ở đó, không có lý do gì để họ không kết hôn nếu Nữ hoàng bằng lòng.”
293. Cf. Purgatorio, V, 133:
“Ricorditi di me, che son la Pia;
“Siena mi fe’, disfecemi Maremma.”
307. Xem Confessions của St. Augustine: “to Carthage then I came, where a cauldron of unholy loves sang all about mine ears.”
308. Toàn văn Kinh lửa cháy của Đức Phật (có tầm quan trọng tương ứng với Bài giảng trên núi [của Chúa Jesus]) mà những lời này được rút ra từ đó, đã được dịch trong Buddhism in Translation (Harvard Oriental Series) của Henry Clarke Warren quá cố. Ông Warren là một trong những người tiên phong vĩ đại trong ngành nghiên cứu Phật giáo ở phương Tây.
309. Một lần nữa, từ Confessions của St. Augustine. Việc sắp xếp hai đại diện của chủ nghĩa khổ hạnh phương Đông và Phương tây, như cực đỉnh của phần này, không phải là tình cờ.
- Sấm nói gì
Trong phần đầu của Phần V, ba chủ đề được sử dụng: hành trình đến Emmaus, cuộc tiến đến Nhà nguyện Nguy hiểm (xem cuốn sách của bà Weston) và sự suy tàn hiện tại của Đông Âu.
357. Đây là Turdus aonalaschkae pallasii, loài hoét ẩn sĩ mà tôi đã nghe thấy ở Hạt Quebec. Chapman nói (trong Cẩm nang về các loài chim ở Đông Bắc Mỹ) “nó thoải mái nhất trong vùng rừng hẻo lánh và những nơi ẩn dật dày đặc… Các nốt của nó không đáng chú ý về sự đa dạng hay âm lượng, nhưng về độ thuần khiết và ngọt ngào của giai điệu và sự uốn giọng tinh tế, nó là vô song.” “Khúc ca nước rỏ” của nó được ca ngợi một cách xứng đáng.
360. Những dòng sau đây được kích thích bởi câu chuyện về một cuộc thám hiểm Nam Cực (tôi đã quên là của ai, nhưng tôi nghĩ là của Shackleton): nó có liên quan đến việc đoàn thám hiểm, ở cực hạn sức lực, đã gặp ảo tưởng liên tục rằng có một thành viên nhiều hơn thực tế đếm được.
366–376. Cf. Hermann Hesse, Blick ins chaos:
“Schon ist halb Europa, schon ist zumindest der halbe Osten Europas auf dem Wege zum Chaos, fährt betrunken im heiligem Wahn am Abgrund entlang und singt dazu, singt betrunken und hymnisch wie Dmitri Karamasoff sang. Ueber diese Lieder lacht der Bürger beleidigt, der Heilige und Seher hört sie mit Tränen.”
401. “Datta, dayadhvam, damyata” (Trao đi, đồng cảm, kiềm chế). Câu chuyện về ý nghĩa của sấm có trong Brihadaranyaka—Upanishad, 5, 1. Một bản dịch có trong Sechsig Upanishads des Veda của Deussen, tr. 489.
407. Cf. Webster, The White Devil, V, vi:
“…they’ll remarry
Ere the worm pierce your winding–sheet, ere the spider
Make a thin curtain for your epitaphs.”
411. Cf. Inferno, XXXIII, 46:
“ed io sentii chiavar l’uscio di sotto
all’orribile torre.”
Xem thêm F. H. Bradley, Appearance and Reality, tr. 346:
“Những cảm giác bên ngoài của tôi không kém riêng tư so với những suy nghĩ hay cảm xúc của tôi. Trong cả hai trường hợp, kinh nghiệm của tôi đều rơi vào trong vòng tròn của chính tôi, một vòng tròn đóng ở phía bên ngoài; và, với tất cả các yếu tố của nó giống nhau, mọi quả cầu đều mờ đục với những kẻ khác bao quanh nó… Nói ngắn gọn, được xem như một tồn tại xuất hiện trong tâm hồn, cả thế giới đối với mỗi tâm hồn đều đặc biệt và riêng tư đối với linh hồn đó.”
424. Xem Weston: From Ritual to Romance; chương về Fisher King.
427. Xem Purgatorio, XXXVI, 148.
“‘Ara vos prec per aquella valor
‘que vos guida al som de l’escalina,
‘sovegna vos a temps de ma dolor.’
Poi s’ascose nel foco che gli affina.”
428. Xem Pervigilium Veneris. Cf. Philomela trong Phần II và III.
429. Xem Gerard de Nerval, Sonnet El Desdichado.
431. Xem Spanish Tragedy của Kyd.
433. Shantih. Lặp lại như ở đây, một kết thúc chính thức cho một Upanishad (áo nghĩa thư). “Sự yên bình vượt ra ngoài hiểu biết” là một bản dịch yếu cho nội dung của từ này.
[i] Chính mắt tôi đã từng thấy Sibyl ở xứ Cumae bị treo trên một cái lồng, và khi những cậu bé hỏi bà: Sibyl, bà muốn gì?, bà trả lời: Ta muốn chết.
[ii] Kẻ cao nghề hơn.
[iii] Em không phải người Nga, em đến từ Litva, một người Đức chính cống.
[iv] Sự tươi mới thổi gió/ Về quê nhà,/ Đứa trẻ Irish của tôi ơi/ Em còn nán lại nơi đâu?
[v] Trống rỗng và hoang tàn là biển.
[vi] Người đọc đạo đức giả!—đồng loại của tôi—người anh em của tôi!
[vii] Và Ôi, giọng của những đứa trẻ, hát trên coupole!
[viii] Rồi ông giấu mình trong ngọn lửa tinh luyện họ.
[ix] Khi nào ta mới được như con chim én.
[x] Hoàng tử xứ Aquitaine nơi tòa tháp bị vùi lấp.