tôi có một căn phòng
với ổ khóa trên cửa
tôi có một quá khứ
bị xóa sổ, trống rỗng và hoen rỉ
tôi có một số phận
khỏe mạnh như tấn thảm kịch >>>
Trần Phương Kỳ – Đêm lời
đêm trao lời lời
ngón tay bấm vào đất đêm nẩy chồi
trên cành xuân kia cánh chim gió vẫy mùa
thơ dại lời nụ xanh vui đất >>>
Nguyễn Hồng Nhung – Vài cảm nhận về Bàn Tròn Mỹ Thuật trên litviet
Hai tuần liền thật thú vị đọc Bàn Tròn Mỹ Thuật trên litviet. Thú vị vì đọc xong cứ phải ngẫm nghĩ, liên tưởng, cứ vẩn vơ đọng trong đầu lâu đến mức phải ngồi xuống… gõ phím, viết ra những cảm nghĩ của mình. Mới yên. Âu cũng là bệnh trầm ngâm một mình trong thời đại internet của những kẻ sống không cùng một nơi nhưng lại dùng chung một công cụ truyền thông, chung một thứ tiếng mẹ đẻ.
Tại sao tôi lại nhắc ngay đến tiếng Việt mẹ đẻ? Có lẽ vì tôi có một ý nghĩ riêng hơi khác so với ý kiến của họa sĩ Trịnh Cung về tiếng Việt khi hoạ sĩ nhắc đến thơ Việt trong bàn tròn. Nhưng điều này chút nữa tôi sẽ nói. >>>
Nguyễn Tấn Cứ – Suy nghiệm trên tàu
Lôi tuột ra khỏi thành phố là những toa tàu
Những cánh rừng trôi trong đêm
Những cánh đồng bay trong đêm
Những trụ đèn đỏ hoe trong mưa gió >>>
K. Lan – Rumba vỡ
khi thành phố kéo chăn
cho lũ kiến đen chịu thương chịu khó lăn ra ngủ
vũ khúc cuối cùng của bàn chân cũng đã dừng lại
em nằm chờ mặt trời phía ngoại ô thay giùm mình xiêm áo >>>
Trịnh Cung – Sau Bàn Tròn Mỹ Thuật, một số điểm cần nói lại với Nguyễn Quỳnh
Sau Bàn Tròn Mỹ Thuật (litviet đã đăng làm hai kỳ, 11 và 18 tháng Hai, 2012), tôi thấy cần trao đổi thêm với họa sĩ Nguyễn Quỳnh một số điểm nhằm tránh ngộ nhận từ phía đọc giả. Những ý kiến sau đây của tôi cũng có thể được nói ngay trong bàn tròn, nhưng vì không muốn một cuộc thảo luận gồm nhiều người lúc đó trở thành một đối thoại tay đôi về những chi tiết rất cụ thể, trong đó gồm nhiều chi tiết liên quan đến lịch sử hội họa miền Nam trước 1975, >>>
Phan Thị Lan Phương – Bộ sưu tập của cô điếm quận 2
Gia đình cô gái điếm vốn sống ở quận 1. Khi quận 1 quy hoạch, gia đình cô chuyển sang quận 2, ở cuối con hẻm nhỏ. Gia đình quá nghèo, cha đi làm mướn + uống rượu, anh trai chạy xe ba gác + uống rượu, “cô gái” đổi tên thành “cô gái điếm” từ năm cô mười tám tuổi. Hai năm trước, khi quận 2 bắt đầu yêu cầu mọi người di dời để giải tỏa, cha và anh trai >>>
Đỗ Hữu Chí – Một sợi nước. Một ngày nắng… Một chút nữa về sự thật
Một sợi nước
Bên trong rất thường dấy lên ý muốn xóa bỏ những gì đã làm, những điều đã viết, những tranh đã vẽ. Chỉ dấy lên thôi chứ không hành động theo, vả chăng, có xóa cũng chẳng được. Mà xóa để làm gì? Những gì đã thành hình chính là ký ức, đã đi hết một đời sống. Cả những dòng này. >>>
Khương Hà – Chúng ta là giấc mơ của ai đó

Ra đảo chơi, đang ngồi café ngắm hoàng hôn thì gặp một cậu bé chừng bốn tuổi. Cậu bắt con mèo mun đang quanh quẩn gần đó rồi hỏi “Cô ơi, mèo của cô hả?” làm mình hơi bất ngờ vì trong đám người ít ỏi trên cái đảo khỉ ho cò gáy này không ngờ cũng có người Việt. >>>
Nguyễn Đăng Thường – Thơ thẩn 2012
Nhai nuốt sáu cục cứt chuột* uống ba ngụm nước suối tiên bồng lai kiên nhẫn đợi một thời gian dài hơn chờ gô đô đái trong quan tài mà vẫn chưa hóa gián.
Thế nên, chiều xuống, áo lính buồn ngẩn ngơ bước trên đường thắm hoa ngắm chưn dài lướt xa tới cuối xa lộ thống nhứt nhà thương điên Biên Hòa-bệnh viện tâm thần Chợ Quán thấy Thanh Tâm Tuyền >>>
Nguyễn Hồng Nhung – Làm gì với mùa đông
Người ta bảo nhau: chỉ còn một tháng nữa thôi, mùa Xuân sẽ đến. Ngày 21 tháng Ba sẽ Lập Xuân. Như thể truyền cho nhau một hy vọng. Như thể an ủi những ngày ngơ ngác này của tôi?
Bạn sẽ nghĩ gì, khi sững sờ đứng trước một người quen đang hấp hối, đang vật lộn chống lại những cơn đau thể xác, >>>
Robert Bly – Thơ
Chân Phương dịch và giới thiệu
Khi Tomas Transtromer lấy giải Nobel Văn Chương 2011, dư luận trong giới văn nghệ Âu-Mỹ đã nhắc nhiều đến Robert Bly, dịch giả đầu tiên giới thiệu nhà thơ Thụy Điển này với độc giả Anh- Mỹ, và có thể nói rộng ra, cho cả thế giới. Bản thân Robert Bly (sinh năm 1926) là một tên tuổi lớn của thơ ca Hoa Kỳ. >>>
Nguyễn Quỳnh – “Cuntology – 4”
Trịnh Cung, Ann Phong, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Minh Thành, Đỗ Hoàng Tường – Bàn tròn mỹ thuật (phần 2)
Phần 2: (tiếp theo phần 1)
Trịnh Cung: Với ý kiến trên của anh Nguyễn Quỳnh, tôi nghĩ chúng ta có thể dừng lại ở đây việc luận bàn về vai trò lý thuyết cho sáng tạo nghệ thuật và thực trạng của nó ở Việt Nam, vì với phạm vi của một bàn tròn, chúng ta coi như đã đạt đến những vấn đề cơ bản. Hôm nay, tôi xin các anh chị chuyển sang vấn đề thực hành, một vấn đề thiết thân của người làm thực hành như tất cả chúng ta. Trong vấn đề “nghề” này, các anh chị đã có kinh nghiệm như thế nào? Trường hợp của một người được học ở Mỹ như chị Ann Phong thì việc thực hành một tác phẩm có gì khác hơn những người học trong nước như anh Đỗ Hòang Tường? Tôi cũng muốn hỏi riêng anh Đỗ Hòang Tường rằng:“Sau khi tốt nghiệp Trường Đại Học Mỹ Thuật TP. HCM, anh vẽ tranh sơn dầu cho đến bây giờ được hơn 30 năm, cái vốn hiểu biết về chất liệu này được nhà trường cung cấp bao nhiêu và sau khi thành một tên tuổi trong Nhóm 10 Người vào thập niên 90 vừa qua mà thủ lĩnh là họa sĩ Nguyễn Trung, anh có điều chỉnh hoặc thêm bớt gì không về mặt sử dụng chất liệu? Nếu tự thấy vấn đề này mình được tốt hơn, vậy nhờ vào điều gì?” >>>
Trần Minh Quân – 4 bài thơ
Đám ma nhiều mây
Chiều nay gió
thổi mây như đám ma trôi chậm
băng ngang bầu trời đã tím ngắt tiếng khóc
tưởng nhớ một tình yêu thương mà
trước vì đói
sau vì hết đói
đã bị bỏ quên. >>>
