Louise Glück | Bảy bài thơ

Louise Glück

Nguyễn Huy Hoàng dịch

Louise Glück sinh năm 1943 ở New York City, hiện sống tại Cambridge, Massachusetts. Bà là tác giả của gần mười lăm tập thơ, gần đây nhất là Faithful and Virtuous Night, tập thơ đoạt giải Sách Quốc gia Mỹ năm 2014; và hai tập tiểu luận, Proofs and Theories (1994) và American Originality (2017). Các tác phẩm khác của bà bao gồm The Wild Iris, tập thơ đoạt giải Pulitzer năm 1993; Ararat, tập thơ đoạt giải Rebekah Johnson Bobbitt của Thư viện Quốc hội Mỹ năm 1990; và The Triumph of Achilles, tập thơ đoạt giải thơ của Hiệp hội Nhà Phê bình Sách Quốc gia Mỹ năm 1985. Bên cạnh đó, bà cũng được trao giải thơ Bollingen năm 2001 và giải Wallace Stevens năm 2008, và được bổ nhiệm làm Thi sĩ Công huân của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2003–2004.

Được nhiều người coi là một trong những nhà thơ đương đại tài năng nhất của Mỹ, Glück được biết đến với sự chính xác về mặt kỹ thuật trong thơ, sự nhạy cảm và cái nhìn sâu sắc về nỗi cô đơn, những mối quan hệ gia đình, sự ly hôn, và cái chết. Nhà phê bình Helen Vendler viết, “Louise Glück là một nhà thơ của sự hiện diện mạnh và ám ảnh. Các bài thơ của bà đạt được sự khác biệt khác thường trong việc nó vừa không phải là thơ ‘tự bạch,’ vừa không phải là thơ ‘trí tuệ’ theo nghĩa thông thường của những từ này.”

Bà được trao giải Nobel văn chương năm 2020.

Nguyễn Huy Hoàng

Tuyết muộn

Bảy năm ròng tôi đã nhìn cụ bà nhà bên
Dìu người bạn đời trống rỗng đi dạo. Một tháng Năm ông quay đầu để xem
Một con nhộng đẩy ra cái sinh vật bọc giấy ăn của nó.
Ông đã quên mất chúng là gì. Nhưng những ngày dễ chịu bà

Đẩy ông qua lại. Và ngâm nga với ông.
Ông ríu rít trên cái xe lăn, cuối cùng
Ra đi vào mùa thu năm ngoái. Tôi nghĩ lũ chim đã quay
Trở lại quá sớm năm nay. Những con sên

Bị vùi dập bởi một trận tuyết. Nhưng, dù sao,
Bản thân bà cũng không còn trẻ. Chân bà hẳn đau
Đẩy sức nặng của ông đi như thế. Một trận tuyết muộn ôm
Cái cây của lũ chim cổ đỏ. Tôi thấy nó đến. Con mẹ queo quắt trên đàn trứng của mình.

**

Bài thơ

Đầu giờ tối, như bây giờ, một người đàn ông đang cúi gằm
xuống mặt bàn viết.
Từ từ anh ngẩng đầu lên; một người đàn bà
xuất hiện, mang theo những bông hồng.
Mặt cô nổi lên trên mặt gương,
in dấu nan xanh của những cành hồng.

Nó là một hình thức
của sự đau khổ: rồi luôn luôn là trang giấy trong suốt
giơ lên cửa sổ cho đến khi các đường ven nổi lên
khi từ ngữ cuối cùng đã đầy mực.

Và tôi phải hiểu
điều gì gắn kết họ với nhau
hay với ngôi nhà xám được giữ chặt bởi hoàng hôn

bởi tôi phải bước vào cuộc đời họ:
đó là mùa xuân, cây lê
phủ một lớp những bông hoa trắng, yếu ớt.

**


Những cây du

Cả ngày tôi đã cố tách biệt
nhu cầu khỏi ham muốn. Giờ, trong bóng tối,
tôi chỉ cảm thấy nỗi buồn cay đắng cho chúng ta,
những thợ xây, những người bào gỗ,
bởi vì tôi đã nhìn
chằm chằm vào những cây du
và đã thấy quá trình tạo ra
cái cây quằn quại, đứng bất động
là nỗi thống khổ, và đã hiểu
nó sẽ chẳng tạo ra hình dạng nào ngoài hình dạng méo mó.

**


Kẻ nói không đáng tin

Đừng nghe con; trái tim con đã nát.
Con không nhìn bất cứ gì khách quan.

Con biết mình; con đã học cách nghe như một bác sĩ tâm lý.
Khi con say sưa nói,
đó là lúc con ít đáng tin nhất.

Nó rất buồn, thực sự: cả đời con, con đã được ca ngợi
vì trí thông minh, sức mạnh ngôn ngữ, sự thấu suốt của mình.
Cuối cùng, chúng đều bị lãng phí—

Con không bao giờ nhìn thấy chính mình,
đứng trên những bậc thềm, nắm tay em gái.
Chính vì thế con không thể giải thích
những vết bầm trên cánh tay con bé, nơi cuối tay áo.

Trong tâm trí con, con vô hình: chính vì thế mà con nguy hiểm.
Người như con, những kẻ dường như vị tha,
chúng con là những kẻ què quặt, những kẻ dối trá;
chúng con là những người nên bị loại ra
vì sự thật.

Khi con im lặng, đó là lúc sự thật xuất hiện.
Một bầu trời trong, mây như những sợi trắng.
Bên dưới, một ngôi nhà nhỏ màu xám, những cây đỗ quyên
đỏ và hồng tươi.

Nếu mẹ muốn sự thật, mẹ phải khép mình lại
trước đứa gái lớn, chặn nó lại:
khi một sinh vật bị tổn thương như vậy,
trong những hoạt động sâu sắc nhất của nó,
mọi chức năng đều bị thay đổi.

Chính vì thế con không đáng tin cậy.
Bởi một vết thương lòng
cũng là một vết thương tâm trí.

**


Lily trắng

Như một người đàn ông và một người đàn bà làm
một khu vườn giữa họ như
một chiếc giường sao, ở đây
họ nán lại trong buổi tối hè
và buổi tối trở
lạnh với nỗi sợ của họ: tất cả
có thể kết thúc, nó có khả năng
hủy diệt. Tất cả, tất cả
có thể bị mất, qua không khí thơm
những cây cột mảnh
mọc lên vô ích, và đằng xa hơn,
một biển dập dềnh anh túc—

Suỵt, dấu yêu. Với tôi nó không quan trọng
bao nhiêu mùa hè tôi sống để trở lại:
một mùa hè này chúng ta đã bước vào sự vĩnh cửu.
Tôi cảm thấy hai tay người
chôn tôi để giải phóng sự huy hoàng của nó.

**


Vita Nova

Trong giấc mơ chia ly
chúng tôi giành nhau xem ai nuôi
con chó,
Bão tuyết. Nói tôi nghe
cái tên ấy có nghĩa là gì. Nó là
một con lai giữa
cái gì to lớn bông xù
với một con dachshund. Đây có cần phải là
cơ quan sinh dục
đực và cái? Bão tuyết đáng thương,
sao nó lại là chó? Nó hầu như chẳng động vào
món hummus trong cái đĩa cho chó ăn.
Rồi có một cái gì khác nữa,
một âm thanh. Như
sỏi được di chuyển. Hay cát?
Cát thời gian? Rồi đó là
Erica với những cái lục lạc của con bé,
như cát thời gian
được nhân cách hóa. Ai sẽ
giải thích chuyện này cho
con chó? Bão tuyết ơi,
bố cần mày; tim bố trống rỗng
không phải vì bố sắp bỏ mẹ mà vì
mẹ không có cái tình yêu
bố muốn, mẹ quá
mỉa mai—mẹ không chịu
nhảy rumba ngoài sân. Hay là
sai nhỉ. Giả như
tôi là con chó, như trong
cái tôi thơ bé của mình, không thể nào an ủi vì
hoàn toàn chưa biết nói? Với
chứng chán ăn! Bão tuyết ơi,
hãy làm một con chó dũng cảm—đây đều
là chất liệu; mày sẽ thức dậy
ở một thế giới khác,
mày sẽ lại ăn, mày sẽ lớn dậy thành một nhà thơ!
Cuộc sống rất lạ, bất kể nó kết thúc thế nào,
đầy ắp những giấc mơ. Không bao giờ
tao sẽ quên mặt mày, đôi mắt người rưng rức
sưng lên vì nước mắt.
Tôi nghĩ đời tôi đã kết và tim tôi đã nát.
Rồi tôi chuyển đến Cambridge.

**


Tuốt

Ánh sáng của bầu trời sau núi
dẫu mặt trời đã biến mất—ánh sáng ấy
giống như bóng của mặt trời, đi qua trái đất.

Trước đó, khi mặt trời còn cao,
bạn không thể nhìn lên trời hoặc bạn sẽ bị mù.
Thời gian đó trong ngày, đám đàn ông không làm việc.
Họ nằm dưới bóng râm, chờ đợi, nghỉ ngơi;
áo lót họ lấm tấm mồ hôi.

Nhưng dưới những tán cây thật mát,
giống như một bình nước chuyền quanh.
Mái hiên xanh trên đầu họ, chắn nắng.
Không trò chuyện, chỉ có lá xào xạc trong cái nóng,
tiếng nước chuyền từ tay sang tay.

Một hai giờ này là khoảng thời gian đẹp nhất trong ngày.
Không ngủ, không thức, không say,
và đám đàn bà đã ở xa
để ngày bỗng trở nên êm đềm, yên tĩnh, và rộng lớn,
không có sự náo loạn của phụ nữ.

Đám đàn ông nằm dưới tán cây, xa cái nóng,
như thể việc đã xong.
Sau những cánh đồng, dòng sông vô thanh, bất động—
váng lốm đốm trên mặt nước.

Với một người đàn ông, họ biết khi nào thì hết giờ.
Bình cất đi, bánh mì, nếu có bánh mì.
Những chiếc lá tối đi một chút, bóng thay đổi.
Mặt trời lại di chuyển, đưa họ theo cùng,
bất kể họ thích hay không.

Trên những cánh đồng, nóng vẫn gắt, ngay cả khi đã bớt.
Những cái máy vẫn đứng nơi nó bị bỏ lại,
kiên nhẫn, chờ đợi sự trở lại của đám đàn ông.

Trời vẫn sáng, nhưng hoàng hôn sắp đến.
Lúa mì còn phải tuốt; còn nhiều giờ
trước khi xong việc.
Và sau đó, đi bộ về nhà qua những cánh đồng,
đối mặt với buổi tối.

Có nhiều khoảng thời gian tốt nhất là bị lãng quên.
Căng thẳng, không ngủ được, tấm thân mềm của người phụ nữ
luôn sát lại gần hơn—
Thời gian trong rừng: đó là thực tế.
Đây là mơ.

Nguyễn Huy Hoàng dịch từ nguyên tác tiếng Anh, “Late Snow” trong Louise Glück, Firstborn (New American Library, 1968); “Poem” trong The House on Marshland (Ecco, 1975); “Elms” trong The Triumph of Achilles (Ecco, 1985); “The Untrustworthy Speaker” trong Ararat (Ecco, 1990); “The White Lilies” trong The Wild Iris (Ecco, 1992); “Vita Nova” trong Vita Nova (Ecco, 1999); và “Threshing” trong A Village Life (Farrar, Straus, and Giroux, 2009)