Thường Quán – Thứ năm 21 tháng Tư, Canberra

Một thân quạ, nửa cụm bạch dương sau rượu tiễn
một người nhận được tin một người đi rồi
những tin đánh mã morse, những hồi xướng vong, rồi màu đen
Tôi đứng trên vòng đất của những người bị đẩy ra khỏi nguyên quán,
lượn lưỡi liềm qua những tụm cỏ
chuông triêu dương – những chuỗi số toán học màu xám, và những độ chìm, đậm
sau cái chết.
Ngôi nhà nghị tộc cũ được tráng lên một màu vôi trắng nhã
những đường kiến trúc art deco và chỗ xoa xóa không-can-chi
một ngọn lửa, để qua đêm, cháy rụi tàn, những cọng khói
bầu trời thông manh treo thấp có vài dấu tích ngụy trang
một trong số ấy là hồn ma cha tôi
trong tâm trí của những người dân làng, thân tộc của ông.
Về phép thư họa, một chữ tự bức tách nó
ra khỏi chiếc phương trượng của vị tu sĩ trẻ
tự thảo vạch một chiếc cánh và đóng ấn một dấu chấm sau cùng
trên nền cát của ngôi mộ cát mới đào trắng tinh, mềm tựa da thịt
sự tốt lành trở về cùng tốt lành – sóng cỏ dại lục đậm chạy lượn triền sóng.
Dưới những đám mây nhạt màu, những hạt của thơ ấu tôi
tôi đang bước vào thánh đường Chính Thống Giáo Hy Lạp ở Kingston
bơi trong những giọng cất xướng
của những hải đảo, quần đảo, những biển đảo trào
tắm trong vùng hồ quang, mặt trời đi qua năm tháng, những bàn chân
giữ trong những đôi tay ân cần
rồi một hôm bị cắt, bị trói bằng dây thừng, bị kéo đi, treo lên, đóng đinh, trong, ngoài,
dưới, trên
cát – ấm, như bao giờ vẫn vậy, đang thở

(Nguyên bản tiếng Anh “Thursday April 21, Canberra,” đăng trên The Age, số cuối tuần 23-24, tháng Bảy, 2011. Bản dịch của tác giả)
 
 
Thursday April 21, Canberra
 

A raven, half a grove of poplars after wake
one receives news that one is gone
morse calls, toll calls and black
I stand on the ground of the displaced, scything the tufts
dawn bells – mathematical series of grey, and shades
after deaths.
Old People’s House washed over with chinawhite fineness
art deco lines and the never-never-mind
a fire, left overnight, burnt to ground, wisps
cataract sky hanging low with a few decoys
one that was my father’s ghost
on the mindsets of the villagers, his kin.
Of calligraphy, a word wrested
itself out of the mace of a young monk
wrote itself a wing and pressed hard a final dot
on the floor of the freshly dug grave, soft as flesh –
goodness returns to goodness –  lush waves of wild grass rolling.
Under faded clouds, grains of my childhood
now I enter a Greek Orthodox house of worship in Kingston
swim in the rising tongues
of islands and archipelagos and the upturned seas
bathed in a hologram, sun washing over years and feet
held in caring hands, then
cut, roped, shifted, hanged up, nailed, in, out, under, over
dirt – warm, ever so, breathing

(Nguyen Tien Hoang. The Age, weekend 23-24, July 2011)